Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Hồ tiêu đối diện với nguy cơ mất thị trường

“Nếu không chấm dứt tình trạng cường canh, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) thì Việt Nam không chỉ mất thương hiệu hồ tiêu với khoản thu 1 tỷ USD mỗi năm mà hàng nghìn nông dân sẽ rơi vào cảnh trắng tay, điêu đứng”, ông Lê Đức Huy, Phó Tổng giám đốc công ty TNHH MTV xuất nhập khẩu 2-9 ở Đăk Lăk cho biết.

Nhiều thị trường từ chối nhập khẩu

Tháng 5 – 2014, nhiều doanh nghiệp (DN) xuất khẩu tiêu Việt Nam đã bị một số nước châu Âu (Đức, Hà Lan…) trả lại hàng và chịu mọi phí tổn vận chuyển, hợp đồng… do dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép. Cụ thể là hoạt chất Carbendazim, một chuyển hóa của Benomyl, được sử dụng rộng rãi ở nước ta để diệt các bệnh nấm trên cây hồ tiêu cao hơn mức cho phép là 0,1 mg/kg.

Tại Hội nghị Hồ tiêu Quốc tế IPC lần thứ 42 được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh vào cuối tháng 10 vừa qua, ông Michio Nozaki, Chủ tịch Hiệp hội Gia vị Nhật Bản đã gửi văn bản cảnh báo tới các DNXK, nếu không cam kết chất Carbendazim gần bằng 0 thì Nhật Bản sẽ không nhập khẩu tiêu Việt Nam. Còn tại Mỹ, nước tiêu thụ hơn 24.500 tấn tiêu Việt Nam thì hoạt chất Carbendazim lại là chất cấm trong thực phẩm. Như vậy, từ năm 2015 nếu Việt Nam không cam kết bảo đảm được tiêu chí này thì ngành hồ tiêu sẽ mất 30% thị trường cao cấp, khó tính nhưng sẵn sàng trả giá cao nếu bảo đảm các rào cản kỹ thuật, xuất xứ, thương mại bền vững cho xã hội và môi trường… Các DN thay vì xuất khẩu ra tất cả các nước tiêu thụ trên thế giới thì hồ tiêu chỉ còn con đường xuất thô dạng nguyên liệu cho các nhà rang xay, tinh chế dầu… không yêu cầu khắt khe về chất lượng như Ấn Độ, Indonexia… Trong khi đó, người dân lại ồ ạt trồng tiêu ngoài quy hoạch, trồng trên đất không phù hợp, cường canh, chạy đua với năng suất bằng cách lạm dụng các loại thuốc BVTV, chất kích thích… đẩy nguồn cung tăng lên mặc cho việc cảnh báo giá tiêu sẽ giảm sút trong tương lai.

Cũng theo các DNXK, để xuất khẩu hồ tiêu ra thị trường thế giới, khâu kiểm định chất lượng rất chặt chẽ, với khoảng 600 hoạt chất cấm, hạn chế trong hồ tiêu được các đơn vị thu mua nước ngoài đưa ra. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có phòng thí nghiệm nào đáp ứng được các yêu cầu này, việc siết chặt chất lượng hồ tiêu từ khâu sản xuất đang được các DNXK chú trọng.

Siết chặt chất lượng hồ tiêu xuất khẩu

Theo đánh giá của các DN và nhà khoa học thì dư lượng thuốc BVTV trong hồ tiêu là thực trạng chung do tình trạng cường canh, lạm dụng quá nhiều thuốc BVTV, chất kích thích sinh trưởng… trong các loại nông sản tại Việt Nam. Ông P.V.T, một nông dân trồng tiêu tại thị xã Buôn Hồ cho hay, hồ tiêu là cây trồng khó tính so với các loại cây khác, nên từ khi xuống giống bà con nông dân đã phải sử dụng chất kích thích rễ… đến giai đoạn kinh doanh thì thường xuyên phun các chất kích thích để được trái to, đều, thuốc diệt nấm…

Theo thống kê, ngành hồ tiêu đang đối mặt với hơn 600 hoạt chất bị cấm, giới hạn do các nước nhập khẩu đưa ra, nhưng với hoạt chất Carbendazim rất khó thực hiện do việc lạm dụng thuốc quá nhiều nên cây tiêu không có đủ thời gian phân hủy. Do vậy, ngay từ khi nhận được cảnh báo của các nước nhập khẩu, công ty TNHH MTV xuất nhập khẩu 2-9 đã tới tận các vùng nguyên liệu để mở các lớp tập huấn sản xuất hồ tiêu bền vững cho bà con nông dân ở các huyện thị Krông Năng, Buôn Hồ, Cư M’gar…; cam kết dành nhiều ưu đãi về giá cho người dân nếu bà con bảo đảm được việc quản lý dịch hại tổng hợp, không lạm dụng thuốc BVTV trong quá trình sản xuất nhưng chưa có chuyển biến nhiều. Hiện tại, Công ty chỉ mới có khoảng 30 ha tiêu dạt chứng nhận Rainforest Alliance.

Ông Lê Đức Huy, Phó TGĐ Công ty cho biết, cây tiêu hiện đang mắc phải những dấu hiệu rủi ro tương tự như ngành Chè những năm 2004 – 2006 là cầu giảm, cung tăng, có vấn đề về chất lượng sản phẩm, một số thị trường từ chối nhập khẩu… Vì vậy, ngay thời điểm này phải xây dựng, giữ vững thương hiệu hồ tiêu Việt Nam.

Ông Phạm Công Trí, Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, Carbendazim là hoạt chất diệt nấm có thời gian phân hủy rất lâu. Thực trạng tồn dư nói trên có thể do bà con nông dân sử dụng để chữa bệnh, cũng có thể do các nhà thu mua sử dụng để bảo quản nông sản. Thực tế, hoạt chất này phát hiện rất nhiều trong các loại nông sản khác, do vậy nếu không chặn đứng cách bảo quản phi khoa học này thì dù bà con nông dân sản xuất, quản lý dịch bệnh tốt thì tồn dư Carbendazim trong nông sản xuất khẩu vẫn vượt mức cho phép.

Theo Đăk Lăk Online

Lâm Đồng: Khó đoán những mùa tiêu Liên Hà

Trong 5 năm trở lại đây, nông dân xã Liên Hà, huyện Lâm Hà thường xuyên phá bỏ cây cà phê để trồng mới cây tiêu, ban đầu chỉ xuất hiện lác đác vài khu vực, nay đã lan rộng trên toàn địa bàn xã lên đến khoảng hơn 40ha. Dù đã qua hai mùa bội thu được giá, nhưng với kiểu sản xuất may nhờ, rủi chịu, nên mùa tiêu mới sắp tới đây vẫn là những kết quả khó đoán đối với người nông dân.


Một vườn tiêu tự phát đạt lãi đột biến ở xã Liên Hà, Lâm Hà
Đạt lãi đột biến

Tính đến cuối tháng 10/2014, Liên Hồ là một địa bàn thôn trồng tiêu nhiều nhất ở xã Liên Hà với hơn 20ha đang vào thời kỳ kinh doanh. Đến đây, chúng tôi được tham quan vườn tiêu 0,6ha đang chuẩn bị bước vào tuổi thứ 5 – tuổi nhiều nhất của vùng tiêu hơn 40ha xã Liên Hà. Chủ vườn, ông Vũ Đức Bình cho biết, đến đầu năm 2015, diện tích 0,6ha tiêu của gia đình sẽ thu hoạch vụ thứ 3 kể từ khi xuống giống trồng vào năm 2010. “Chúng tôi đang tích cực chăm bón để đạt năng suất vụ tiêu thứ 3 sao cho ngang bằng với 2 vụ tiêu trước đó là yên tâm…” – ông Bình nói. Bởi theo tính toán của ông Bình, nếu mỗi năm đạt năng suất trung bình trên dưới 4 tấn tiêu khô/0,6ha thì dù giá bán có “bắt đáy” 40-50.000 đồng/kg vẫn có thể thu lãi từ 60-100 triệu đồng (sau khi trừ khoảng 100 triệu đồng đầu tư).

Tuy nhiên, để xây dựng một vườn tiêu kinh doanh 0,6ha, sau hơn 2 năm phải đầu tư cơ bản tổng cộng từ 250-300 triệu đồng. Đến năm thứ 3 trở đi – khi tiêu có thu hoạch thì hàng năm chỉ tốn thêm khoảng 100 triệu đồng vật tư phân bón và công lao động. Trên cánh đồng 6ha cà phê hơn 15 năm tuổi, hàng năm, hộ gia đình ông Bình đạt tổng sản lượng từ 12 tấn hạt nhân trở lên. Nhân với giá hiện thời 40.000 đồng/kg, thành tổng doanh thu 480 triệu đồng. Trừ tất cả nguồn vốn “đầu vào”, gia đình ông Bình thu lãi ròng cà phê hơn 300 triệu đồng. Thay vì “an phận” với con số lãi này hàng năm, hộ ông Bình quyết định sang tỉnh Đắk Nông tìm mua các giống cây tiêu mới về trồng thay thế cho cây cà phê. Đến cuối mùa mưa năm 2010, ông Bình đã phá bỏ đồng loạt trên 0,6ha cà phê rồi cày xới cho đất tơi xốp, xây lên những hàng trụ cột bê tông để xuống giống trồng cây tiêu. Nhưng “vạn sự khởi đầu nan” trồng tiêu của hộ gia đình anh Bình không hoàn toàn “thuận buồm xuôi gió”. Cây tiêu Đắk Nông sinh trưởng trên vùng đất mới xã Liên Hà, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng mới vào 2 tháng tuổi bỗng chết héo rũ trên diện rộng đến hàng trăm gốc. Lặn lội khắp nơi tìm hiểu mới biết nguyên nhân cây tiêu con chết là do tưới thiếu nước, bón thiếu phân. Ông Bình phải bỏ thêm một lần tiền nữa để trồng lại hàng trăm gốc tiêu này.

May mắn đến với hộ ông Bình với 2 niên vụ tiêu thu hoạch đầu tiên – niên vụ 2012-2013 và 2013-2014, gia đình trồng tiêu đều được mùa, được giá với tổng sản lượng thu 4 tấn tiêu khô/0,6ha/vụ. Ông Bình bán ra với giá “lập đỉnh” mỗi ký tiêu khô trong năm 2013 là 130.000 đồng và trong năm 2014 là 185.000 đồng. So sánh với doanh thu trên cây cà phê cùng thời điểm, cây tiêu đã tạo ra một bước lãi đột biến ngoài mong đợi.

Tiềm ẩn nhiều rủi ro

Bên cạnh vườn tiêu kinh doanh 0,6ha “gặp hên” nói trên, hộ ông Vũ Đức Bình đã chuyển đổi thêm 0,6ha cà phê sang trồng tiêu mới đã 3 tháng tuổi. Và dự kiến đến đầu năm 2015, ông Bình lại “mở mang” 0,6ha “tiêu trên đất cà” nữa. “Mình chuyển một phần diện tích cà phê sang trồng cây tiêu, nhằm dự phòng nếu thua lỗ cây này còn có cây kia hy vọng gỡ lại…” – ông Bình chia sẻ. Cùng suy nghĩ và làm theo việc “đổi cà sang tiêu” như hộ ông Bình có hộ nông dân trẻ Nguyễn Anh Tuấn ở cùng địa phương xã Liên Hà với diện tích 0,3ha. Nhưng thay vì cây tiêu xuống giống trồng dưới chân trụ xi măng (cây chết) thì Tuấn trồng dưới gốc cây báng súng (cây sống). Trồng cây sống vẫn theo cự ly cây cách cây và hàng cách hàng 2,5m như “trồng” cây chết. Do chủ yếu chăm sóc đến đâu tự đúc rút kinh nghiệm đến đó, nên Tuấn phải “trả học phí” quá đắt với hơn 70% cây tiêu 7-8 tháng tuổi bị chết khô không kịp cứu chữa. Hiện, vườn tiêu của Tuấn đã trồng mới lại vài tháng tuổi, đang lên xanh tốt là nhờ biết khắc phục những sai sót kỹ thuật lần trước – dẫu những ngày tới rất khó đoán kết quả sinh trưởng như thế nào (?!).

Chủ tịch Hội Nông dân xã Liên Hà, bà Nguyễn Thị Thưởng khẳng định việc chuyển đổi trồng mới hơn 40ha cây tiêu là do người nông dân tự phát, trong khi quy hoạch “hiện hành” ở địa phương chỉ gồm cây chè, cây cà phê và cây dâu tằm. Bởi vậy, các chi hội nông dân cơ sở đang lưu ý bà con nông dân nên thận trọng, cân đối hợp lý những diện tích chuyển đổi trồng tiêu mới, bằng mọi cách phải giữ lại diện tích đất để canh tác một trong 3 cây chủ lực chính trong hộ gia đình là cây chè, cây cà phê và cây dâu tằm như vừa nêu.

Theo Văn Việt (Báo Lâm Đồng điện tử)

Hậu Giang: Trồng tiêu dưới tán rừng tràm

Mô hình trồng tiêu dưới tán tràm kết hợp nuôi thủy sản của ông Dương Thanh Bình ở ấp 1, xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, Hậu Giang, là điển hình, sáng tạo trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên vùng đất phèn.


Mô hình trồng tiêu dưới tán tràm kết hợp với nuôi thủy sản.

Để tạo bước đột phá mới trong việc chuyển đổi cây trồng và tránh cảnh được mùa mất giá, ông Bình đã chủ động đi tham quan, tiếp cận các mô hình làm ăn mới để về thử nghiệm 3 công đất trồng tràm kém hiệu quả của mình. Ông Bình kể: “Tôi chủ động học hỏi các nhà vườn trồng tiêu ở Kiên Giang. Nhận thấy tiêu là cây trồng có nhiều triển vọng nên năm 2009, tôi bắt đầu trồng thử nghiệm 100 gốc tiêu trên thân cây tràm”. Do chưa có kinh nghiệm nên qua 3 năm trồng, 100 nọc tiêu của ông chỉ có 63 gốc phát triển tốt và cho thu hoạch. Vừa rồi, mỗi nọc tiêu cho thu hoạch 2 kg hạt khô, bán với giá 160.000 – 200.000 đ/kg, thu lợi nhuận trên 15 triệu đồng.

Đang chăm sóc vườn tiêu 5 năm tuổi, ông Bình cho biết: “Làm nọc tiêu có thể lấy các loại gòn, dừa, nhưng vài năm thì nọc sẽ bị gãy hoặc chết, khi đó phải thay thế nọc mới nên rất tốn công và kinh phí. Còn tràm là loại cây lâu năm, có nhiều lớp vỏ, giữ nước tốt, vì thế làm nọc tiêu sẽ không bị ảnh hưởng. Trồng dưới tán tràm giúp dây tiêu tránh được sự biến đổi bất thường của thời tiết”.

Một nông dân khác cho biết, trồng tiêu không quá khó vì tiêu chịu được đất phèn và ít sâu bệnh. Người trồng chỉ lưu ý đến việc khai thông hệ thống nước tưới tiêu, đào rãnh thoát nước tránh ngập úng, khoảng cách giữa các nọc tiêu khoảng 1,5 – 2m để dây tiêu mọc nhánh nhiều. Mỗi năm bón cho dây tiêu khoảng 3 lần phân NPK. Ngoài ra, để tiêu ngon, thơm nồng, thì sử dụng thêm phân chuồng để bón gốc. Thấy được hiệu quả kinh tế của việc trồng tiêu dưới tán rừng tràm, hiện tại mô hình của ông Bình được nhân rộng lên với 1.000 nọc tiêu (diện tích 3.000 m2)…

Ông Bình cho biết thêm: “Theo kinh nghiệm của nhiều nhà vườn trồng tiêu thì năm thứ 3 tiêu bắt đầu cho thu hoạch khoảng trên dưới 1,5 kg/nọc. Nhưng đến năm thứ 5 – 7 thì một nọc tiêu có thể cho từ 3 – 5 kg. Mỗi nọc tiêu có thể cho hạt tới 20 năm. Đến khi dây tiêu già cỗi không cho năng suất nữa thì có thêm nguồn thu từ cây tràm”. Nói về kỹ thuật, ông Bình chia sẻ: “Do đất phèn nên trước khi trồng nên sử dụng 50 kg vôi bột rải trên 1.000 m2, sau 7 ngày trồng thì sử dụng phân chuồng để để bón với liều lượng 5 – 7 kg/gốc tiêu. Liều lượng bón sẽ tăng dần cùng với sự phát triển của cây nhằm tạo độ tơi xốp, màu mỡ cho đất. Tràm trồng từ 1,5 – 2 năm tuổi sẽ tiến hành trồng tiêu. Chi phí để đầu tư phân chuồng, thuốc BVTV, giống chỉ 2 triệu đ/công”.

Về hiệu quả của việc trồng tiêu trên đất phèn, ông Bình so sánh: “Trồng tiêu cho thu nhập cao gấp chục lần trồng mía mà không tốn nhiều công chăm sóc, chi phí đầu tư, sản phẩm không phải cạnh tranh với nhiều mặt hàng khác. Hộ nghèo, ít đất vẫn có thể SX, chỉ với 2 công trồng 700 nọc tiêu sau 5 – 7 năm cho thu nhập vài trăm triệu đồng”. Không chỉ vậy, nhờ tìm tòi, học hỏi nên ông Bình đã nắm được kỹ thuật ươm tiêu giống. Ngoài việc chuẩn bị giống để mở rộng thêm 3 ha, mỗi năm ông còn cung cấp cho thị trường trên dưới 6.000 nọc với giá 6.000 đ/nọc, lợi nhuận trên 30 triệu đồng. Với việc trồng tiêu, kết hợp với nuôi cá, ốc… mỗi năm đem lại nguồn thu nhập vài trăm triệu đồng cho gia đình ông Bình.

“Trồng tiêu dưới tán rừng tràm là mô hình hay giúp địa phương giữ được và phát triển diện tích rừng tràm. Hiện diện tích trồng tiêu dưới tán tràm của Long Mỹ là 2,8 ha. Bình quân cho thu nhập 40 – 50 triệu đ/ha đối với tiêu 2 – 3 năm tuổi, trên 100 triệu đ/ha đối với cây 4 – 5 năm tuổi”. Ông Huỳnh Thế Anh, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm liên huyện Long Mỹ – Vị Thanh, cho biết.

Nguồn Nongnghiep.vn

Hồ tiêu, cây trồng “vàng” đất Việt

Việt Nam trở thành nước sản xuất hồ tiêu số 1 của thế giới từ năm 2000 và liên tục 14 năm liền, từ đó đến nay vị trí đó không đổi.



Xóm Nghệ Tĩnh tỷ phú

Vùng trồng hồ tiêu của tỉnh Bình Phước phần lớn nằm dọc theo Quốc lộ 13 thuộc 2 huyện Lộc Ninh và Bù Đốp. Qua ngã 3 cửa khẩu Hoa Lư 20 km, xã Tân Tiến, huyện Bù Đốp có ấp Tân Hòa nhưng cái tên ấp đó chỉ được sử dụng cho mục đích hành chính, còn tên gọi thường ngày là xóm Nghệ Tĩnh tỷ phú.

Cả xóm có trên 100 hộ, 100% đều có quê gốc ở Nghệ An và Hà Tĩnh và 100% đều có thu nhập tròm trèm 1 tỷ đồng/năm.

Năm 1988, ông Cao Đình Hồng, đưa 5 con, 4 trai 1 gái: Tân, Tiến, Mạnh, Hùng, Phương đều đang tuổi “lao động vàng” từ xã Nghĩa Trung, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An vào đây lập nghiệp.

Vùng đất này ngày trước đã có chủ nhưng các hộ kinh tế mới của TP Hồ Chí Minh, các hộ Việt kiều Căm Pu Chia chạy nạn Pôn pốt đã không trụ lại được, còn ông Hồng nhờ đã có “nhãn quan” kinh tế mới (vốn là dân Hưng Nguyên đi kinh tế mới ở Nghĩa Đàn) nên sớm phát hiện ra mỏ vàng dưới lớp đất bazan nâu đỏ và trồng tiêu ngay từ những ngày đầu.

Ban đầu chỉ được vài trăm trụ nhưng với giá tiêu sọ 1 chỉ vàng/kg, ông Hồng khá lên rất nhanh và thu hút thêm nhiều gia đình khác và ấp Tân Hòa trở thành xóm Nghệ Tĩnh tỷ phú. Riêng đại gia đình ông Hồng đã có đến 40 ha, trồng 3 cây chính là hồ tiêu, cao su và cà phê, trong đó hồ tiêu là chủ lực với sản lượng bình quân 35 T/năm.

Không riêng Tân Hòa mà hồ tiêu đã làm nên bao nhiêu ấp tỷ phú khác, đổi đời hàng vạn hộ nông dân từ nghèo trở nên khá giả, giàu có ở Châu Đức (BR-VT), Xuân Lộc, Cẩm Mỹ (Đồng Nai), Đăk Mil, Cư Jut (Đăk Nông), Eakar, Eahleo (Đăk Lăk) Chư Sê (Gia Lai)…

Đến với những xóm ấp này cứ tưởng một nơi nào đó trên thế giới vì ai ai cũng có biệt thự, có đầy đủ các tiện nghi sinh hoạt hiện đại, có tài khoản ngân hàng, xài thẻ tín dụng, sử dụng internet và đặc biệt vào các dịp lễ tết thì đoàn xe hơi, con em của họ đang đi làm ăn ở các thành phố, cứ nối đuôi nhau…

Sức mạnh của thông tin

Việt Nam trở thành nước sản xuất hồ tiêu số 1 của thế giới từ năm 2000 và liên tục 14 năm liền, từ đó đến nay vị trí đó không đổi. Hồ tiêu là mặt hàng nông sản duy nhất của Việt Nam không xảy ra hiện tượng “được mùa mất giá” do người nông dân có thể tự điều tiết lượng hàng hóa bán ra từng thời điểm để có được giá cả có lợi nhất.

Tại sao các mặt hàng có thế mạnh tương tự hồ tiêu như cà phê, cá da trơn lại không làm được điều đó? Câu trả lời là hồ tiêu có được sự hỗ trợ của thông tin. Không có mặt hàng nào mà có được thông tin minh bạch về sản lượng sản xuất, lượng hàng tồn kho, cân đối cung cầu, giá cả trên từng thị trường được cập nhật một cách đầy đủ, kịp thời, có độ tin cậy cao như thông tin của Hiệp hội hồ tiêu thế giới IPC.

Gia nhập IPC năm 2005, Hiệp hội hồ tiêu VN – VPA là hội ngành hàng duy nhất của Việt Nam gia nhập hội ngành hàng của thế giới và trở thành thành viên quan trọng nhất, thành viên có mức đóng góp hội phí cao nhất (100.000 USD/năm), cho tổ chức này.

IPC có 6 thành viên, bao gồm Brazin, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Srilanka và Việt Nam có tổng sản lượng 331.500 T, chiếm 87% sản lượng hồ tiêu của toàn thế giới (năm 2013) nên tiếng nói của IPC cực kỳ quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của ngành hàng này trên quy mô toàn thế giới.

Thông tin của IPC được VPA chuyển tải lại trên trang web của mình và trở thành công cụ tư vấn cực kỳ hiệu quả không những cho các DN, các trang trại mà cả cho hàng nghìn hộ trồng tiêu khác.

Mặt khác, do được tích lũy từ nhiều năm nên phần lớn các hộ trồng tiêu không bị thúc ép bởi gạo tiền thường nhật, tiêu lại có thể đóng bao bảo quản thông thường từ 2-3 năm mà không sợ bị hư hao, đấy là cơ sở để người trồng tiêu, trữ tiêu lựa chọn được thời điểm bán ra phù hợp nhất cho mình.


Đoàn khách quốc tế tham quan một vườn trồng hồ tiêu

Đâu là lợi thế của hồ tiêu Việt Nam?

Năm 2014, tổng diện tích hồ tiêu kinh doanh của VN khoảng 63.000 ha cho sản lượng 135.000 T (đã trừ 20.000 T nhập khẩu) bán được 1.080 triệu USD (không kể 6.000 T tiêu dùng nội địa) bình quân mỗi ha thu được hơn 17.000 USD (tương đương 350 triệu VND).

Năm 2014 trở thành năm lịch sử trên cả 3 phương diện: Diện tích, sản lượng, giá trị, đồng thời cũng là năm cao nhất của giá bán hồ tiêu tại nông hộ – bình quân 170.000 đ/kg. Với mức giá trên ít có cây nào sánh kịp và trở thành động lực làm bùng nổ diện tích trồng mới.

Theo ước tính của nhiều chuyên gia, diện tích trồng mới trong 2 năm 2013 và 2014 là rất lớn, ước khoảng 10.000 ha/năm và chưa có dấu hiệu dừng lại, bởi vậy diện tích hồ tiêu trong các năm tới sẽ là 100.000 ha, gấp 2 lần diện tích quy hoạch định hướng của Bộ NN&PTNT.

Song song với bùng nổ về diện tích, thâm canh ắt cũng sẽ bùng nổ về dịch bệnh. Điều tra của Viện KHKTNN Miền Nam cho thấy hồ tiêu đang mắc 8 trọng bệnh là chết nhanh, chết chậm, xoăn lá, thối rễ, đốm lá đen, đốm lá trắng, đốm rong, rệp bông, trong đó có 2 bệnh nguy hiểm nhất từng xóa sổ nhiều vùng tiêu ở Việt Nam là bệnh chết nhanh do nấm Phytophthora và chết chậm do nấm Fusarium.

Nấm bệnh nhiều làm cho lượng dùng thuốc BVTV trên hồ tiêu tăng lên, nguy cơ mất vệ sinh an toàn thực phẩm, đấy là nguyên nhân chính làm cho tiêu VN không đủ độ tin cậy để chen chân được vào các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản. Mức giá 200.000 đ/kg được coi là kỷ lục trong vòng 15 năm nay của hồ tiêu VN nhưng hãy còn rất rẻ so với Ấn Độ, Mã lai, Indo từ 1.500 – 2.500 USD/T.

Từng có nhiều đoàn đại biểu của IPC tham quan hồ tiêu VN, trong đó có không ít các nhà khoa học hàng đầu về hồ tiêu. Khi đến các vườn tiêu có năng suất từ 4-5 T/ha, họ đều khen ngợi nông dân ta hết lời nhưng khi về tới khách sạn chỉ còn vài người thân tình thì họ lại nói khác, 30 năm, 50 năm trước hồ tiêu của họ cũng từng đạt năng suất như vậy nhưng bị gãy đổ bởi dịch bệnh. Cũng theo họ, muốn bền vững thì năng suất chỉ nên duy trì trên dưới 2 T/ha.

Sự tăng giá nhiều năm liền của hồ tiêu do sự phát triển của ngành chế biến thức ăn nhanh sử dụng nhiều gia vị hơn; sự tăng giá đột biến từ 7.053 USD lên 11.000 USD/T vào cuối năm 2014 vừa qua chủ yếu là do giảm sản lượng 43.000 T từ Ấn Độ, Indonesia và Sri Lanka. Những nước này, nhất là Brazil đang nỗ lực để tăng sản lượng hồ tiêu, dự báo sản lượng cầu vượt cung ở năm 2015 trở về sau sẽ không còn đáng kể….

Nguồn Nông nghiệp Việt Nam

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014

Kịch bản nào cho hồ tiêu Việt Nam?

13 năm liên tục ở “ngôi hậu” trong “làng xuất khẩu hồ tiêu thế giới”, hạt tiêu Việt Nam đang ở thời kỳ huy hoàng nhất. Quy hoạch phát triển cho ngành này vừa được ban hành cuối tháng 6, nay đã bộc lộ tính thiếu thực tế…

Các nhà hoạch định chiến lược hoàn toàn có lý khi khẳng định quy hoạch phát triển phải dựa trên nhu cầu thị trường, khai thác lợi thế về đất đai, nguồn nước, khí hậu, thời tiết để phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung, hiệu quả và bền vững… Nhưng, dường như các nhà hoạch định lại đang tự mâu thuẫn với chính mình trong mục tiêu phát triển và định hướng quy hoạch.

Giữ kỷ luật hay giả làm ngơ?

Hồ tiêu của Việt Nam là cây trồng có sức cạnh tranh đặc biệt lớn, thị trường thế giới lại rất hút hàng, giá hồ tiêu xuất khẩu đang cao kỷ lục khiến nông dân trồng tiêu lãi to. Cho nên không chỉ nông dân, mà có lẽ ngay cả các cơ quan quản lý địa phương cũng đang làm ngơ trước mệnh lệnh xóa bỏ hơn 20% diện tích hồ tiêu nằm ngoài quy hoạch.

Trước hết, nếu diện tích trồng hồ tiêu năm 2013 tăng theo diện tích cho thu hoạch như đã được công bố thì tổng diện tích đã đạt hơn 62.000ha, tức là tăng khoảng 12.000ha (23,8%) trong vòng bốn năm gần đây. So với quy hoạch đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, diện tích hồ tiêu duy trì và ổn định ở mức 50.000ha, thì con số tăng nói trên phải xử sao đây?

Tại sao diện tích hồ tiêu lại tăng nóng chỉ trong một thời gian ngắn như vậy? Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng do giá hồ tiêu xuất khẩu những năm gần đây đã hai lần tăng đột biến. Nếu như giá hồ tiêu xuất khẩu năm 2006 chỉ đạt 1.632 USD/tấn thì năm 2007 tăng gấp đôi lên 3.269 USD/tấn, nửa đầu năm nay đã là 7.156 USD/tấn. Đây chính là nguồn động lực cực lớn thúc đẩy nông dân dồn sức phát triển cây tiêu.

Doanh thu từ hồ tiêu cao hơn bất kỳ loại cây công nghiệp lâu năm nào khác, mỗi hecta hồ tiêu đạt hơn 14.200 USD, cao gấp 5,2 lần so với cà phê, 5,6 lần so với cao su và 8 lần so với chè và điều. Rõ ràng với doanh thu như vậy, chắc chắn “phán quyết” giảm mạnh diện tích đang lãi “khủng” hiện nay để chuyển sang các loại cây cho doanh thu thấp hơn là điều quá khó để nông dân chấp nhận, nếu không muốn nói là không thể.

Giá có thể tăng mãi được không?

Giá hồ tiêu tăng nóng như vậy có phải nhờ ngành hồ tiêu nước ta đã điều tiết được giá thế giới, trong đó công đầu thuộc về nông dân, như nhiều ý kiến đã khẳng định? Các số liệu thống kê hoàn toàn đủ để cho phép khẳng định rằng đây chỉ là điều kiện đủ, khi điều kiện cần đã xuất hiện.

Trước hết, theo Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), diện tích hồ tiêu thế giới năm 2012 đã giảm xuống 540.000ha (từ 640.000ha năm 2006), tức là đã giảm tới 15,7%. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến sản lượng hồ tiêu thế giới năm 2012 chỉ đạt 461.000 tấn, vẫn giảm 5.000 tấn so với kỷ lục 466.000 tấn trước đó sáu năm, do năng suất trong cùng kỳ tăng khá.

Theo ước tính của IPC, sản lượng hồ tiêu thế giới năm nay lại giảm do mất mùa và gần như sẽ trở lại như mức đã đạt được năm 2006. Như vậy, sản lượng hồ tiêu thế giới bảy năm gần đây hầu như “giậm chân tại chỗ”. Nghĩa là nguồn cung khan hiếm làm giá liên tục sốt nóng.

Trong điều kiện cán cân cung – cầu nghiêng về phía các quốc gia xuất khẩu như vậy, với tỉ trọng thị phần xấp xỉ 39% trong những năm gần đây, việc nông dân trồng hồ tiêu nước ta không ồ ạt bán ra ở những thời điểm nhất định, họ đã tận dụng được cơ hội mà thị trường mang lại.

Bởi lẽ, nếu như diện tích và sản lượng hồ tiêu thế giới tăng mạnh như những năm trước đây, giá hồ tiêu liên tục đứng ở mức thấp thì cho dù điều tiết được lượng xuất khẩu, chắc chắn họ cũng không có phép mầu nào để đẩy giá xuất khẩu nhúc nhích.

Theo quy luật thị trường hàng hóa thế giới, sau một thời gian tăng nóng đủ dài, giá cả sẽ thúc đẩy sản xuất tăng mạnh, dẫn tới tình trạng cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ giảm mạnh cũng trong một thời gian đủ dài, một chu kỳ gồm hai pha nóng, lạnh tương tự sẽ được lặp lại. Điều đó đã được chứng minh trong ba thập kỷ gần đây. Thị trường hồ tiêu đã trải qua hai chu kỳ sốt nóng – lạnh 1985-1993 và 1994-2005, từ năm 2006 đến nay là giai đoạn sốt nóng.

Trong khi đó, với tổng sản lượng ổn định ở mức 140.000 tấn theo quy hoạch đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2-1,3 tỉ USD, giá hồ tiêu xuất khẩu của nước ta ít nhất phải đạt khoảng 8.600-9.300 USD/tấn, tức là sẽ tăng khoảng 30-40% so với năm 2013.

Cho dù mục tiêu này còn được hỗ trợ bởi việc nâng cao chất lượng và tái cơ cấu, nhưng sau pha sốt nóng đã bước sang năm thứ tám hiện nay, không ai dám đoán chắc giá hồ tiêu thế giới sẽ còn liên tục tăng mạnh như hiện nay. Và nếu giá tiếp tục tăng nóng như vậy, chắc chắn nông dân nước ta sẽ còn dồn sức hơn nữa để phát triển hồ tiêu, cho nên mục tiêu giảm diện tích sẽ càng xa vời hơn nữa.

Hướng đi nào?

Như đã nói ở trên, cho dù giá hồ tiêu năm nay đã bước sang năm thứ tám sốt nóng, mà theo quy luật sau “nóng” sẽ là “lạnh”. Nhưng cũng lại có những dự đoán rằng nhiều khả năng chu kỳ “nóng” còn kéo dài khoảng ba bốn năm nữa và sẽ đạt kỷ lục về thời gian sốt nóng kể từ thập niên 1960 trở lại đây.

Lý do chủ yếu để suy đoán như vậy là do châu Á chiếm gần 90% diện tích và 84% sản lượng hồ tiêu thế giới đang đối mặt với nguy cơ El Nino, cho nên rất khó để khôi phục nhanh diện tích trong ngắn hạn.

Trong đó, như các số liệu thống kê của FAO cho thấy, trong khi diện tích hồ tiêu của “người khổng lồ” Ấn Độ đạt kỷ lục hơn 260.000ha năm 2006, chiếm 40,7% tổng diện tích thế giới, nhưng năm 2012 vẫn ở sát mức đáy 185.000ha.

Bên cạnh đó, một “đại gia” khác về diện tích hồ tiêu là Indonesia với gần 179.000ha (năm 2012) cũng chỉ có năng suất khiêm tốn ở mức 58% năng suất bình quân của thế giới, cho nên khả năng nhanh chóng phục hồi diện tích bị giảm rất lớn cũng không hề dễ dàng.

Trong điều kiện như vậy, với ưu thế vượt trội gấp 2,34 lần năng suất bình quân của thế giới và gấp 4 lần của Indonesia, thậm chí gấp 6,9 lần của Ấn Độ…, rõ ràng sức cạnh tranh của hồ tiêu nước ta là đặc biệt lớn.

Thực tế đó có lẽ cho phép khẳng định rằng việc nông dân nước ta tăng rất mạnh diện tích hồ tiêu kể từ cuối thập niên 1990, thậm chí tăng ồ ạt ngay cả trong những năm sốt lạnh giá hồ tiêu thế giới đầu thế kỷ này và giành luôn “ngôi hậu” trong “làng xuất khẩu hồ tiêu thế giới” để hưởng lợi giá hồ tiêu thế giới sốt nóng từ năm 2006 đến nay là lựa chọn đúng.

Trong bối cảnh như vậy, ép nông dân giảm mạnh diện tích là một việc khó. Chấp nhận diện tích hiện có, hay thậm chí tăng thêm, làm tăng vọt năng suất lên gấp rưỡi như mục tiêu đã đề ra cần phải dựa trên cơ sở tính toán và năng lực dự báo thị trường giỏi của đội ngũ chuyên môn có nghiệp vụ vững vàng.

Giảm diện tích và sản lượng trong lúc sốt nóng giá cả thế giới vẫn còn ở phía trước là một quyết định không dễ dàng. Nhưng rõ ràng, trong tư thế dẫn đầu hiện nay, một nỗ lực cần làm tốt bên cạnh năng suất và tái cơ cấu mặt hàng là việc xây dựng thương hiệu, hình ảnh cho “tiêu Việt Nam”, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.



Bạt ngàn hồ tiêu Tây nguyên

Vỡ quy hoạch

Giá hồ tiêu thực tế tại vườn ở Gia Lai dao động ở mức 190.000-200.000 đồng/kg đang tiếp tục kéo dài cơn sốt hồ tiêu nơi có diện tích trồng tiêu lớn nhất nước này. Theo quy hoạch của tỉnh, đến năm 2020 diện tích hồ tiêu trên toàn tỉnh ở mức 6.000ha nhưng chỉ mới đến giữa năm nay đã vượt lên 10.000ha.

Chia sẻ về thực trạng này, ông Lê Văn Lịnh phó giám đốc Sở NN&PTNT Gia Lai nói: “Còn năm năm nữa mới tới thời điểm chốt của quy hoạch hồ tiêu toàn tỉnh nhưng đến giờ đã có tới gần 10.000ha hồ tiêu rồi. Chúng tôi cố gắng khống chế, khuyến cáo người dân nhưng không thể kiểm soát được”.

Ông Lịnh cũng nói hiện nay Gia Lai chưa có một nhà máy chế biến hồ tiêu tập trung nào, đầu ra cho sản phẩm lẫn các công tác hỗ trợ khuyến nông đi kèm (bảo vệ thực vật, phòng chống dịch bệnh, tìm kiếm thị trường…) chưa thật sự mạnh nên việc hồ tiêu vỡ quy hoạch đang tạo ra những nguy cơ trước mắt: được mùa rớt giá, mất mùa được giá.

Gia Lai có vùng chuyên canh hồ tiêu nổi tiếng, đã tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ thương hiệu hồ tiêu Chư Sê. Ở địa phương này, cây tiêu đã giúp nông dân đổi đời, nhiều hộ gia đình thu nhập tiền tỉ từ các vườn hồ tiêu. Ông Hoàng Phước Bính – đại diện Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê (huyện Chư Sê) – cho biết hiện diện tích hồ tiêu của riêng Chư Sê đã lên tới gần 2.500ha.

Theo tính toán của người dân ở đây, trung bình 1ha tiêu thụ được từ 700-800 triệu đồng, trừ chi phí nắm chắc trong tay 400-500 triệu đồng. Hấp lực này khiến rất nhiều hộ nông dân tại các huyện Chư Sê, Chư Prông, Đắk Đoa, Đức Cơ… của tỉnh Gia Lai đã chặt bỏ các vườn cây khác chuyển qua trồng hồ tiêu.

Tuy nhiên, cũng có nhiều hộ dân nếm trái đắng từ việc chuyển qua trồng loại cây này. Ông Lê Đình Hân, nông dân ở thôn 5, xã Ia Pal, huyện Chư Sê, cho biết trước đây trồng 900 trụ tiêu, thu về hàng trăm triệu đồng mỗi vụ. Đến năm 2009, gia đình tăng thêm gần 1,5ha trồng hồ tiêu. Nhưng rồi “quả đắng” hồ tiêu bắt đầu ập đến. “Gần 900 trụ tiêu của tôi đã bị nhiễm bệnh chết, bao nhiêu tiền của, công sức ra đi” – ông Hân nói.

Thống kê của Sở NN&PTNT Gia Lai cho thấy năm 2012 và 2013 toàn tỉnh có gần 500ha tiêu bị chết do nhiễm bệnh nấm, chỉ riêng năm 2014 diện tích tiêu chết đã lên trên 600ha và đang có xu hướng tăng.

Theo Tuổi Trẻ

Đăk Lăk: Triển vọng từ các mô hình trồng tiêu bền vững

Sự phát triển ồ ạt của cây tiêu trong những năm qua không chỉ phá vỡ quy hoạch của Tỉnh mà còn dễ dẫn đến tình trạng cây tiêu bị dịch bệnh chết hàng loạt, gây thiệt hại đến kinh tế người dân. Chính vì vậy, việc triển khai thực hiện các mô hình sản xuất tiêu bền vững đang là một trong những giải pháp hiệu quả nâng cao giá trị cây tiêu cần được nhân rộng.


Vườn tiêu ở xã Ea Bhôk (Cư Kuin) cho năng suất cao và ổn định nhờ áp dụng kỹ thuật chăm sóc theo hướng bền vững.

Những năm gần đây, do giá tiêu hạt trên thị trường luôn ở mức cao nên nhiều hộ nông dân đổ xô trồng tiêu, khiến diện tích loại cây này trong Tỉnh không ngừng tăng nhanh. Nếu như năm 2005 toàn Tỉnh mới chỉ có 3.567 ha tiêu thì đến nay đã tăng lên 11.000 ha (vượt trên 6.000 ha so với quy hoạch), sản lượng đạt gần 20.000 tấn/vụ. Mặc dù là loại cây trồng có khả năng thích ứng với nhiều vùng đất và nhu cầu nước tưới ít hơn cà phê, vụ thu hoạch hoàn toàn trong mùa khô, nhưng do yêu cầu kỹ thuật chăm sóc đối với cây tiêu khá cao, vốn đầu tư lớn, nên việc mở rộng diện tích tiêu không theo quy hoạch và chăm sóc không hợp lý rất dễ khiến cây tiêu bị nhiễm bệnh chết.

Ông Huỳnh Quốc Thích, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Đăk Lăk cho biết, từ việc phát triển ồ ạt cây tiêu đã và đang kéo theo nhiều hệ lụy: Người dân phá bỏ nhiều diện tích cây trồng khác như cà phê, điều, cao su, cây ăn quả… để trồng tiêu. Thêm vào đó, khi chuyển sang trồng tiêu, người dân thường thiếu chú trọng khâu cải tạo đất, xử lý mầm bệnh. Phần lớn diện tích tiêu trong Tỉnh đều được trồng chủ yếu trên trụ chết, chưa chú trọng đến cây che bóng cho tiêu. Phân hóa học được bón với liều lượng cao, mất cân đối, lại ít quan tâm đến phân hữu cơ và chế phẩm sinh học cho cây tiêu, chính vì vậy tình hình sâu, bệnh hại trên cây tiêu phát triển mạnh, chưa có biện pháp hữu hiệu để khắc phục. Qua theo dõi của Chi cục BVTV, tính từ năm 2008 đến nay, tổng diện tích tiêu bị bệnh héo chết nhanh và vàng lá chết chậm là gần 680 ha với tỷ lệ hại từ 5-20%, diện tích bị nhiễm tuyến trùng là 580 ha.

Để cải thiện tính bền vững trong quá trình sản xuất cây tiêu, năm 2011 Viện KHKT Nông – Lâm nghiệp Tây Nguyên phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Tỉnh tiến hành khảo sát xây dựng mô hình trình diễn trồng tiêu theo hướng bền vững tại phường Tân Bình (thị xã Buôn Hồ) và xã Ea Bhôk (huyện Cư Kuin) trên diện tích 5,3 ha, gồm 20 hộ tham gia mô hình trồng tiêu trên trụ cây sống. Kết quả cho thấy, năng suất tiêu từ các mô hình này cao hơn sản xuất đại trà từ 20,2 – 25,0 % (so sánh tại các vùng xây dựng mô hình). Tiếp tục đến năm 2012, Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV), tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững (IDH), Công ty thu mua Euroma phối hợp với Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 (Simexco Dak Lak) đã hỗ trợ triển khai thực hiện Dự án “Phát triển chuỗi cung ứng tiêu bền vững”. Dự án được triển khai tại xã Quảng Tiến (huyện Cư M’gar), xã Ea Tân (huyện Krông Năng), phường Thống Nhất (thị xã Buôn Hồ) với sự tham gia của 500 hộ dân, diện tích tiêu được chứng nhận là 411 ha, sản lượng 777 tấn, sản lượng thu mua 336 tấn (theo chứng nhận Rainforest Alliance)… Từ việc triển khai thực hiện các mô hình sản xuất tiêu bền vững, nhiều hội, đoàn thể và đơn vị chức năng địa phương trong Tỉnh đã có cơ sở để tổ chức cho hội viên tham quan các vườn tiêu hiệu quả trên địa bàn; đồng thời mở các lớp tập huấn hướng dẫn về kỹ thuật trồng tiêu hiệu quả theo hướng bền vững để bà con nông dân áp dụng. Từ đó những kinh nghiệm, kiến thức, kỹ thuật để chăm sóc cây tiêu đạt chất lượng cao đã được nhiều nông dân chia sẻ với nhau và mô hình này ngày càng nhân rộng.

Vườn tiêu của gia đình ông Trần Văn Tam ở xã Quảng Tiến, huyện Cư M’gar được áp dụng kỹ thuật chăm sóc theo hướng bền vững (theo Dự án Phát triển chuỗi cung ứng tiêu bền vững) từ hơn 2 năm nay. So với các vườn tiêu trồng theo phương thức truyền thống thì vườn tiêu gia đình ông có nhiều khác biệt như ít bị sâu bệnh, lá tiêu dày và xanh hơn, đặc biệt là đã hạn chế được dịch bệnh chết nhanh, chết chậm. Ông Tam cho biết, quy trình chăm sóc vườn tiêu bằng phương pháp sinh học khá đơn giản, chỉ sử dụng toàn phân xanh, phân chuồng ủ hoai, phân hữu cơ vi sinh để bón cho cây khi mới trồng. Khi tiêu cho trái thì bón thêm một ít phân vô cơ để hỗ trợ cây nuôi trái. Nhờ vậy với 1 ha tiêu kinh doanh, gia đình ông thu hoạch trung bình khoảng 6 tấn tiêu hạt, thu lãi trên 900 triệu đồng/năm, cao hơn các hộ trồng đại trà khác trong xã từ 1 – 2 tấn/ha.

Ông Huỳnh Quốc Thích cho hay: Đối với việc thực hiện các mô hình sản xuất tiêu bền vững thì nông dân được hỗ trợ tập huấn chuyển giao kỹ thuật canh tác tiêu bền vững, phương pháp thu hoạch, phơi sấy, bảo quản hồ tiêu và an toàn vệ sinh lao động. Đồng thời, được cấp phát và hướng dẫn sổ ghi chép nhật ký nông hộ, giúp nông dân chủ động hơn trong các khâu kỹ thuật, biết hạch toán chi phí trong sản xuất; được hỗ trợ mua tủ đựng thuốc BVTV, kinh phí đào hố để thu gom rác, nhất là bao bì thuốc BVTV nhằm bảo vệ môi trường, sức khỏe người lao động. Nhờ vậy, từ chỗ sản xuất tiêu theo kinh nghiệm là chính, nông dân đã biết hạn chế sử dụng phân bón hóa học, chú trọng dùng phân hữu cơ vi sinh, tạo hệ thống thoát nước, trồng cây che bóng, chắn gió và sử dụng các loại thuốc BVTV trong danh mục được khuyến cáo để phòng bệnh cho tiêu định kỳ nên vườn cây phát triển tốt, tăng năng suất. Không chỉ được chuyển giao kỹ thuật sản xuất tiêu bền vững, các hộ tham gia mô hình còn được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn thị trường từ 2 – 4%. Đây cũng được xem là một trong những mô hình điểm thực hiện mối liên kết “4 nhà“ tạo ra vùng sản xuất nguyên liệu chất lượng cao, bền vững gắn với doanh nghiệp thu mua, chế biến và tiêu thụ ổn định.

Nguồn Lê Thành (DakLak Online)

Hồ tiêu gia nhập CLB 1 tỷ USD: Phải sửa lại quy hoạch?

Hồ tiêu gia nhập CLB 1 tỷ USD: Phải sửa lại quy hoạch?

Trong khi nhiều mặt hàng nông sản khác đang gặp nhiều khó khăn khi XK ra thị trường thế giới, hợp đồng thu mua bị suy giảm, bị bạn hàng ép giá… thì hồ tiêu vẫn tăng trưởng mạnh, vững bước tiến sâu vào thị trường thế giới. Lần đầu tiên sau bao năm XK, lần đầu tiên tiêu đạt trên 1 tỷ USD.

Nhiều khả năng cán đích trước 6 năm

Theo Bộ NN&PTNT, khối lượng tiêu XK trong tháng 8 ước đạt 9.000 tấn, thu về 85 triệu USD, đưa khối lượng XK tiêu 8 tháng đầu năm lên 134.000 tấn, đạt kim ngạch 996 triệu USD, tăng 30% về khối lượng và tăng 47% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Bước sang tháng 9, tiếp tục duy trì phong độ ổn định cả về giá cả, lượng XK, hồ tiêu ghi dấu ấn kỷ lục.

Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong nửa đầu tháng 9, các DN trong nước đã XK được 3.556 tấn hạt tiêu, đạt giá trị 34,081 triệu USD, nâng kim ngạch XK tiêu của cả nước từ đầu năm đến nay lên trên 137.000 tấn, đạt giá trị 1,022 tỷ USD. Như vậy so với cả năm 2013, lượng tiêu XK tính đến giữa tháng 9 đã nhiều hơn gần 4.000 tấn, XK cao hơn 100 triệu USD.

Thu nhập từ 1 ha trồng tiêu hiện cao gấp 5-6 lần cà phê, gấp 12 lần trồng chè
Hiệp hội Hồ tiêu quốc tế (IPC) dự báo, từ nay đến cuối năm, nguồn cung hồ tiêu cho thế giới sẽ thiếu hụt, không đáp ứng đủ nhu cầu vì các nước XK tiêu lớn như Ấn Độ, Indonesia giảm sản lượng 15-20%. Một lần nữa, đây sẽ là cơ hội cho ngành hồ tiêu Việt Nam tăng tốc XK.

Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) dự báo, XK tiêu năm nay có thể sẽ tăng mạnh so với năm ngoái. Có khả năng năm 2014, XK tiêu sẽ đạt 1,3 tỷ USD - đây là con số tương đương với mục tiêu XK hồ tiêu của năm 2020 do Bộ NN&PTNT vừa đặt ra khi Quy hoạch phát triển ngành hồ tiêu Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 vừa được phê duyệt.

Theo đó, mục tiêu phấn đấu của ngành là đến năm 2020, tầm nhìn 2030 diện tích trồng hồ tiêu cả nước duy trì ổn định ở mức 50.000 ha, năng suất đạt 30 tạ/ha, sản lượng đạt 140.000 tấn và sản phẩm tiêu chất lượng cao đạt 90%, kim ngạch XK đạt 1,2-1,3 tỷ USD. Như vậy, nếu cuối năm ngành tiêu cán đích 1,3 tỷ USD cũng đồng nghĩa với việc cán đích sớm tới 6 năm. Nếu vậy, có lẽ Quy hoạch phát triển ngành hồ tiêu mới được phê duyệt, sẽ cần phải được chỉnh sửa lại cho theo kịp với thực tế.

Hiện tại, tiêu của Việt Nam đã có mặt tại hơn_90_quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam chiếm khoảng 30% sản lượng tiêu trên toàn thế giới và chiếm khoảng 50% khối lượng tiêu XK trên thế giới. Dù là nước gia nhập Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) muộn nhất (tháng 3/2005 mới được Liên Hiệp Quốc phê chuẩn là thành viên chính thức của Cộng đồng) nhưng vai trò và vị trí ngành hồ tiêu Việt Nam từng bước được nâng cao khi các nước bắt đầu lấy giá bán của Việt Nam để tham khảo.

Gần đây, nhiều thị trường XK tiêu của Việt Nam đạt mức tăng trưởng mạnh như Hoa Kỳ tăng 25,7% về khối lượng và tăng 35,19% về giá trị; Singapore tăng 80,74% về khối lượng và tăng gấp 2,27 lần về giá trị; Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất tăng 63,24% về khối lượng và tăng 93,63% về giá trị; Thị trường Ấn Độ tăng 85,68% về khối lượng và tăng gấp hơn 2 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.

Điều phối nhịp nhàng, hài hòa lợi ích

Ngành hàng hồ tiêu đạt được nhiều thành công, giữ vị trí đứng đầu thế giới về lượng hồ tiêu XK và từ năm 2001 và duy trì cho đến hiện nay là do chúng ta có năng suất tiêu bình quân đạt hơn 2 tấn/ha, thuộc nhóm có năng suất cao trên thế giới.

Ưu thế thứ hai là sự ổn định về chất lượng và sản lượng. Mặc dù một số nước sản xuất tiêu đã giảm lượng sản xuất do giá cả thấp trong vài năm gần đây, Việt Nam vẫn duy trì được diện tích và sản lượng. Đồng thời, chất lượng hạt tiêu ngày càng cao nhờ quan tâm và đầu tư nhiều hơn đến chế biến sau thu hoạch.

Thế mạnh thứ ba là khả năng giảm thiểu XK thông qua các nhà buôn trung gian, mà tăng cường XK trực tiếp cho những nhà cung ứng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến gia vị ở các nước. Bên cạnh đó, sự khác biệt về thời điểm thu hoạch với những vùng canh tác chính trên thế giới cũng tạo lợi thế trong điều tiết thu mua, tiêu thụ cho hồ tiêu Việt Nam.

Trong khi Ấn Độ và Srilanka thu hoạch sớm từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau, Brazil và Indonesia thu hoạch muộn hơn từ tháng 7 đến tháng 11. Việt Nam lại thường thu hoạch từ tháng 1 đến tháng 5 trong đó lượng thu hoạch tập trung chủ yếu trong tháng 2 và tháng 3.

Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch VPA, khuyến cáo trong tình hình giảm cung và giá phục hồi như hiện nay, ngành hồ tiêu Việt Nam nên tập trung để phát triển bền vững. Trước hết cần kiểm soát ổn định diện tích và sản lượng hồ tiêu trong nước.

Với tín hiệu phục hồi giá, nông dân có thể tái đầu tư mạnh vào diện tích hiện có hoặc trồng mới thêm. Trong trung hạn, có thể gây ra vấn đề dư cung như thời gian trước đây dẫn đến sự trì trệ của cả ngành hàng trong tương lai. Diện tích trồng được khuyến cáo duy trì ở mức như hiện nay, trên dưới 50.000 ha.

Cần tiếp tục nâng cao trình độ công nghệ chế biến để đạt chất lượng hạt tiêu đảm bảo ATTP. Nâng dần tỷ trọng tiêu trắng trong cơ cấu tiêu xuất khẩu để nâng cao giá trị và lợi nhuận của ngành hàng.

Không khuyến thích thâm canh tăng năng suất, mà duy trì ổn định năng suất như hiện nay, tăng tuổi thọ vườn tiêu bằng các biện pháp canh tác và phòng trừ dịch bệnh tổng hợp.

Cần có những hoạt động nhằm điều phối, thống nhất việc XK tiêu giữa các DN để đạt được lợi ích chung cao nhất dựa trên các dự báo, thông tin thị trường chính xác. Các DN cần liên kết với hệ thống ngân hàng để có đủ vốn thu mua và dự trữ nguyên liệu ngay từ đầu vụ để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của toàn ngành.

Theo Thời báo Kinh doanh

Xuất khẩu nông sản Việt vào EU: Cơ hội luôn đi cùng thách thức

Thực trạng và tương lai đầy triển vọng cũng như những tồn tại cần khắc phục để doanh nghiệp (DN) Việt Nam gia tăng xuất khẩu hàng nông sản sang Liên minh Châu Âu (EU) là chủ đề chính của hội thảo "Thị trường EU - Cơ hội và thách thức mới", do Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) tổ chức ngày 24-9 tại Hà Nội.

Thị trường đầy tiềm năng

Đến nay, EU vẫn là thị trường nhập khẩu quan trọng hàng đầu đối với DN và hàng Việt, với tổng kim ngạch buôn bán hai chiều năm 2013 đạt gần 34 tỷ USD; trong đó Việt Nam đóng vai trò xuất siêu trong quan hệ thương mại song phương, chiếm gần 2/3 giá trị trên. Các chuyên gia xác nhận, EU là khu vực có tiềm năng, truyền thống nổi bật, với sức mua dồi dào và ổn định nhờ thu nhập bình quân đứng hàng đầu thế giới. Thực tế cho thấy, với 500 triệu người tiêu dùng, lại thiết lập xong khung pháp lý để thống nhất nguyên tắc và tiêu chuẩn cùng "chơi" trên một thị trường chung, nên khu vực này trở thành thị trường hoàn thiện - là mục tiêu theo đuổi của hầu hết DN toàn cầu.






Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Ảnh: Đại Dương

Trên thực tế, DN Việt đã và đang hiện diện khá vững chắc tại thị trường EU, với định hướng làm ăn lâu dài, tập trung vào việc mở rộng thị trường và nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Điều đó cũng phù hợp với chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu theo xu hướng đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế mở, năng động và nhất là xác định xuất khẩu là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Đại diện Phòng Thương mại Châu Âu (Eurocharm) nhấn mạnh, quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại tự do giữa EU - Việt Nam đang tiến dần đến bước cuối cùng, hứa hẹn sẽ được ký kết trong thời gian tới và sẽ mang lại ý nghĩa rất tích cực đối với DN Việt. Dự báo, khi đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào EU sẽ tăng mạnh, ở mức 30-40% so với trước thông qua việc gia tăng xuất khẩu một số nông sản truyền thống, có thế mạnh như cà phê, ca cao, hạt tiêu, điều, tôm... Hơn thế, cũng có khoảng 90 dòng thuế áp dụng đối với hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ được EU giảm xuống mức thấp nhất, đồng nghĩa với sự hậu thuẫn cho hàng Việt thâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường này.

EU gồm 28 quốc gia thành viên, có tổng mức giá trị nhập khẩu chiếm hơn 19% giá trị thương mại toàn cầu. EU là thị trường xuất khẩu thứ hai của Việt Nam; kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 4,1 tỷ USD năm 2000 và tăng lên tới gần 34 tỷ USD năm 2013. Những thị trường đang có tốc độ tăng trưởng cao thuộc EU lại là những thị trường nhỏ như: Hungary, Bồ Đào Nha, Latvia… với mức tăng trưởng trên 57%/năm.

Nâng tầm nông sản Việt

Các chuyên gia khuyến cáo, trong giao thương hiện đại không thể có thuận lợi hoàn toàn mà luôn đi cùng thách thức, bất lợi nếu DN không biết hoặc không thể hạn chế những nhược điểm, yếu kém của mình. Theo ông Nguyễn Mạnh Dũng, đại diện Cục Chế biến nông, lâm, thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tình trạng DN chấp nhận xuất khẩu hàng nông sản mới qua sơ chế vẫn khá phổ biến do thiếu nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào được bảo đảm cả về khối lượng và chất lượng. Điều đó làm giảm cơ hội gia tăng giá trị gia tăng của hàng nông sản xuất khẩu cũng như mất cơ hội về việc làm, thu nhập cho người lao động. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu do sự manh mún trong sản xuất, diện tích trồng cây nguyên liệu nhỏ lẻ, sản lượng thấp lại thiếu phương thức canh tác tiên tiến và sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan…

Một nguyên nhân nữa, đó là DN trong nước cũng chưa quen với cách làm chặt chẽ, đúng quy định của đối tác EU. Đơn cử, DN bạn luôn yêu cầu minh bạch về thông tin sản phẩm, nhất là bảo đảm về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng cũng như quy cách đóng gói, bao bì. Đây là những điều kiện gần như bắt buộc và không có sự thỏa hiệp, dễ dãi từ phía nhà nhập khẩu. Từ đó, DN của ta được gợi ý là nên chủ động tìm hiểu rõ quy định chung cũng như yêu cầu của đối tác để đáp ứng; đặc biệt không bao giờ hành xử cẩu thả hoặc có ý định sử dụng những "thủ thuật" khác như lách luật, mua chuộc, tình cảm riêng… với đối tác hoặc cơ quan quản lý nước ngoài. Đơn giản vì họ không có thói quen như vậy đồng thời luôn có ý thức đề cao pháp luật. Ngoài ra, sản phẩm xuất khẩu phải "sạch" về quyền sở hữu trí tuệ và DN cần hết sức tránh vấn đề này do tính nhạy cảm của nó trong giao thương quốc tế. Tiếp theo, sản phẩm xuất khẩu phải có giá bán hợp lý, có thuyết minh và thông tin thành phần cấu thành giá thành sản xuất thật rõ ràng để thuận lợi cho việc đối chiếu khi cần thiết. Làm được như vậy là có thể phòng tránh nảy sinh khiếu kiện chống bán phá giá từ phía DN nước ngoài. Một số vấn đề khác cũng quan trọng nhưng DN Việt chưa quan tâm thỏa đáng là không được sử dụng những đối tượng yếu thế, nhất là người già, trẻ em trong quá trình sản xuất sản phẩm hoặc có vi phạm pháp luật về lao động. Quá trình sản xuất cũng không được gây ô nhiễm hoặc ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên hoặc xã hội. Đây là những yếu tố thể hiện sự văn minh nên dễ gây "dị ứng" đối với nhà nhập khẩu. Về phía mình, đại diện DN cũng xác nhận, nhìn chung các đơn vị vẫn còn một số lúng túng trước nhu cầu mở rộng thị trường, tăng xuất khẩu nông sản vào EU. Đơn cử như DN chế biến cà phê vẫn chấp nhận việc bán sản phẩm mới qua sơ chế hoặc bán thành phẩm; trong khi nhà máy chế biến rau quả lại không làm chủ được vùng nguyên liệu bên cạnh sự bị động về công nghệ, thiếu vốn, phương pháp bảo quản lạc hậu hoặc bất lợi về khoảng cách vận chuyển…

Các chuyên gia cho rằng, DN cần quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu để khẳng định vị thế trên thị trường; đầu tư có trọng điểm để hình thành hệ thống nhà máy chế biến, từ đó nâng tầm sản phẩm nông sản Việt; đồng thời tăng cường kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực trồng, chế biến, bảo quản và vận tải nông sản.

Theo Hà Nội Mới

Phú Quốc: Nông dân yên tâm đầu tư trồng mới hồ tiêu


VOV.VN - Giá hồ tiêu liên tục tăng tạo tâm lý ổn định cho các nhà vườn yên tâm mạnh dạn tái đầu tư vào sản xuất.

Liên tục trong nhiều năm nay giá hồ tiêu trên thị trường Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang luôn biến động tăng giá, đây cũng là yếu tố tạo động lực cho các nhà vườn sản xuất hồ tiêu ở Phú Quốc yên tâm đầu tư phát triển bền vững loại cây trồng truyền thống trên đảo.

Đến thời điểm này, giá bán hồ tiêu tại Phú Quốc giao động từ 180.000 – 200.000 đồng/kg tiêu cội, hơn 250.000 đồng/kg đối với loại tiêu chín, tăng gấp 1,5 lần với giá bán thời điểm thu hoạch chính vụ 2013-2014 và cao nhất kể từ trước đến nay. Giá hồ tiêu liên tục tăng trong nhiều năm qua, mang lại tín hiệu vui, tạo tâm lý ổn định cho các nhà vườn yên tâm mạnh dạn tái đầu tư vào sản xuất.

Ông Nguyễn Văn Quý, người trồng tiêu ở ấp Ông Lang, xã Cửa Dương phấn khởi cho biết, người nông dân trên đảo trước nay vẫn dựa vào cây tiêu để xóa đói giảm nghèo, với mức giá như hiện nay, bà con nông dân trên đảo yên tâm trồng và phát triển cây hồ tiêu. Với giá tiêu này, mỗi hộ dân chỉ trồng 300 cây tiêu đã có thể cho lợi nhuận trang trải sinh hoạt ổn định cho gia đình 4 nhân khẩu.

Vườn tiêu của gia đình anh Hiếu cho năng suất cao.Mùa mưa năm nay, hầu hết các nhà vườn trên đảo Phú Quốc đều phấn khởi tập trung trồng mới vườn tiêu hoặc trồng thay thế phục hồi các vườn tiêu cũ bị lão hóa. Nhiều nông hộ còn mạnh dạn đầu tư trồng mới với số lượng lớn từ 1.000 - 2.000 bụi. Do phong trào trồng hồ tiêu diễn ra khá rầm rộ đã khiến chi phí đầu tư trồng mới cũng tăng cao.

Theo tính toán của bà con nông dân, năm nay chi phí trồng mới khoảng 400.000 đồng/bụi bao gồm mua cây nọc, giống, công làm đất, phân bón. Đây là cây trồng đòi hỏi mất nhiều công sức, tuy nhiên nếu giá hồ tiêu vẫn giữ mức ổn định trên 150.000 đồng/kg thì mỗi ha tiêu sau khi trừ chi phí cũng cho lợi nhuận hơn 300.000 triệu đồng, nông dân vẫn có cơ hội làm giàu trên mảnh vườn, thửa rẫy của mình.

Anh Huỳnh Quang Trung, một người trồng tiêu ở huyện Phú Quốc cho biết, giá tiêu 2 năm nay thấy ổn định. Nếu đầu tư theo đúng bài bản, người trồng tiêu sau 1 năm có thể thu hồi vốn.

Mới đây, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang đã phối hợp với Sở Văn hóa thể thao - du lịch và UBND huyện Phú Quốc khảo sát và nghiên cứu xây dựng đề tài mô hình du lịch sinh thái vườn tiêu đảo Phú Quốc nhằm đưa mô hình du lịch sinh thái vườn tiêu Phú Quốc phát triển quy mô và bền vững.

Tuy nhiên, theo quy hoạch phát triển nông nghiệp đến năm 2015, Phú Quốc chỉ giữ vững diện tích hồ tiêu khoảng 500 ha. Bởi vậy huyện cũng khuyến cáo nông dân không nên đầu tư trồng mới ồ ạt, tránh tình trạng hồ tiêu biến động xuống giá, điều này đã từng xảy ra nhiều lần trong quá khứ./.

Mô hình trồng tiêu trên cây tràm sống – Một mô hình sáng tạo của nông dân

Hồ tiêu (Piper nigrum thuộc họ Piperaceae) được trồng ở Việt Nam từ thế kỷ XVII. Là một trong những mặt hàng nông sản chủ lực của đất nước. Vào năm 2013, Việt Nam có lượng xuất khẩu hồ tiêu đạt khoảng 900 triệu USD; sản lượng hồ tiêu đạt khoảng trên dưới 100 ngàn tấn/năm. Giá cả thị trường hồ tiêu trên thế giới bình quân tăng liên tục, giá xuất khẩu hồ tiêu tại Việt Nam năm 2012 đạt khoảng 6.300 USD/tấn (VPA, 2013). Thị trường hạt tiêu Việt Nam hiện nay có mặt khắp các quốc gia trên thế giới, chủ yếu xuất khẩu đến các thị trường lớn như Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ và Châu Phi. Điều này cho thấy ngành hồ tiêu Việt Nam đang có cơ hội tốt cho phát triển từ đó nâng cao hiệu quả cho người trồng tiêu và góp phần vào sự phát triển ổn định kinh tế của cả nước.


Tiêu phát triển tốt trên trụ tràm sống
Ở ba vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Duyên Hải Miền Trung chiếm tổng cộng 99% diện tích trồng tiêu, còn lại chỉ 1% diện tích trồng tiêu ở tỉnh Kiên Giang chủ yếu ở Phú Quốc. Một ít diện tích ở huyện Giồng Riềng khoảng 40 ha và gần đây một số diện tích ở tỉnh Hậu Giang chưa nằm trong tổng số thống kê nhưng có hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với trồng các loại cây ăn trái trong vùng.

Ở Việt Nam, cây Hồ tiêu phát triển mạnh trên vùng đất đỏ bazan, là một cây dây leo lâu năm nên cần trụ để leo trong khi sinh trưởng và phát triển. Trụ có thể là cây sống vừa làm trụ, vừa làm bóng râm như cây lồng mức, cây muồng đen, cây gòn, vông nem, cây ăn trái, cây cau… Trên cây trụ chết như các loại cây gỗ, cột bê tông, cột đá, bồn gạch… loại trụ này cần trồng thêm cây che bóng. Kỹ thuật trồng tiêu trên đất phèn sử dụng cây tràm sống làm trụ mới được nông dân ở các huyện Giồng Riềng, Kiên Giang; Long Mỹ và Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang sáng tạo và đem lại hiệu quả cao.

Theo số liệu của ngành Khuyến nông tỉnh Kiên Giang năm 2014, huyện Giồng Riềng mới chỉ có trên 40 ha Hồ tiêu, năng suất đạt khá cao từ 2 - 3,5 tấn/ha/năm. Năm 2014, tiêu có giá từ 150.000 - 160.000 đồng/kg, mỗi năm những hộ trồng tiêu có thu nhập hàng chục triệu đồng. Hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với trồng các loại cây ăn quả tại địa phương.

Theo thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh Hậu Giang, diện tích đất nhiễm phèn trên địa bàn tỉnh gần 68 ngàn ha, tập trung ở Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thủy, TP.Vị Thanh… Đất phèn thì khó sản xuất cây trồng, cần phải nghiên cứu tìm tòi những cây thích hợp để cho hiệu quả cao. Nông dân ở các huyện đất phèn ở Long Mỹ và Vị Thủy đã thành công khi đưa cây Hồ tiêu trồng trên đất phèn và độc đáo nhất là dùng cây trụ sống là cây tràm, một loại cây chỉ thị trên đất phèn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long mà từ trước đến nay, chưa ai nghĩ đến. Từ đó, nhiều bà con nông dân đã chuyển đổi sang trồng cây tiêu, có nguồn thu nhập cao và ổn định. Mô hình trồng tiêu dưới tán tràm của ông Dương Thanh Bình, ở xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, là một trong những mô hình điển hình trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng sáng tạo của nông dân vùng đất phèn. Còn ở huyện Vị Thủy, nông dân Nguyễn Văn Thì, sau 3 năm chuyển đổi sang mô hình trồng tiêu, hiện ông đã phát triển gần 1 ha cây tiêu và có thu nhập ổn định.



Vườn tiêu trên trụ tràm sống tại huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang

Về kỹ thuật, do đất phèn nên trước khi trồng cần bón vôi (khoảng 500kg/ha) rải trên mặt liếp vào đầu mùa mưa; sau trồng bón nhiều phân chuồng, phân hữu cơ và ít sử dụng phân vô cơ. Liều lượng bón sẽ tăng theo sự phát triển của cây nhằm tạo độ tơi xốp, có nhiều dinh dưỡng cho tiêu phát triển tốt. Phân hữu cơ có tác dụng tạo môi trường sống cho nhiều sinh vật đối kháng làm giảm nấm bệnh cho tiêu… Ngoài ra, để tiêu ngon, thơm nồng, nông dân còn biết sử dụng thêm phân gà, vịt để bón gốc. Cần chú ý đến hệ thống nước tưới tiêu, tránh ngập úng. Trong điều kiện dùng tràm làm cây trụ sống, khoảng cách giữa các trụ khoảng 1m. Cần bón bổ sung mỗi năm khoảng 2 - 3 lần phân NPK cho dây tiêu mọc nhánh nhiều.

Mặc dù các huyện trên đây diện tích trồng Hồ tiêu còn ít so với các loại cây trồng khác, nhưng cây hồ tiêu hứa hẹn sẽ mang đến thu nhập khá cho người dân ở vùng đất phèn. Đây thật sự là một mô hình làm ăn mới cần được các ngành có liên quan nghiên cứu và nhân rộng ở từng địa phương có điều kiện thích hợp và có định hướng trong phát triển bền vững cho sản xuất cây trồng trong vùng đất phèn và vùng đồng bằng khác./.
TS. Nguyễn Công Thành, Viện Khoa học KTNN miền Nam


Công nghệ tưới nhỏ giọt trên cây tiêu

Xuân Lộc là một trong những địa bàn phát triển mạnh cây hồ tiêu của tỉnh. Tuy nhiên năng suất, chất lượng tiêu trong những năm qua lại chưa tương xứng với tiềm năng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chính là việc cung cấp nước tưới không phù hợp với sinh trưởng và phát triển của cây tiêu. Nắm bắt được thực trạng trên câu lạc bộ (CLB) tiêu năng suất cao ấp 6, xã Xuân Bắc, H. Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đã mạnh dạn áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt trên cây tiêu và bước đầu đã đem đến hiệu quả thiết thực.

Các thành viên CLB tiêu năng suất cao tìm hiểu bình áp lực trong hệ thống tưới nhỏ giọt


Được thành lập vào năm 2010, với 50 hộ tham gia, CLB tiêu năng suất cao ấp 6, xã Xuân Bắc đã trở thành nơi học hỏi cũng như chia sẻ kinh nghiệm về sản xuất tiêu giữ các thành viên. Những năm trước mặc dù công đầu tư chăm bón lớn nhưng cây tiêu lại không thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nguyên nhân chủ yếu được các thành viên xác định là do việc cung cấp nước chưa đảm bảo nhu cầu sinh trưởng và phát triển của cây tiêu. Để khắc phục tình trạng trên, được sự hướng dẫn của Phòng khuyến nông huyện, CLB đã mạnh dạn áp dụng công nghệ tưới nước nhỏ giọt trên cây tiêu.

Để áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt thì chi phí đầu tư cho 1 hecta khoảng 60 triệu đồng, bao gồm hệ thống đường ống, hệ thống bình áp lực, máy bơm… Tuy nhiên hiệu quả mang lại lại rất lớn.

Đến thăm vườn tiêu của ông Vương Đoàn Ngoãn, Chủ nhiện CLB tiêu năng suất cao ấp 6, xã Xuân Bắc, được tận mắt thấy vườn tiêu xanh non cho dù đã một thời gian qua tại địa bàn nắng nóng kéo dài liên tục. Ông Ngoãn cho biết từ khi áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, ông cảm thấy an tâm hơn khi phải đối mặt với những đợt nắng gay gắt. Trước kia, với cách tưới tràn trên bề mặt, người lao động phải vác vòi nước chạy cật lực khắp vườn dưới trời nắng gay gắt vô cùng vất vả, công lao động cao, hiệu quả thấp, bởi nước chỉ tràn trên bề mặt chứ chưa đủ thấm vào gốc tiêu. Bây giờ với hệ thống tưới nhỏ giọt, chỉ cần động tác khởi động máy bơm là có thể ung dung đứng nhìn những giọt nước thấm sâu vào từng gốc. Hệ thống tưới nước nhỏ giọt thực sự đã giải phóng sức lao động, tiết kiệm tối đa chi phí nhân công và nhiên liệu. “Trước đây với cách tưới tay thì tôi phải mất gần như cả ngày để tưới nước cho 1 sào tiêu, và cứ 3 ngày lại phải tưới một lần. Thế nhưng từ khi áp dụng tưới nhỏ giọt thì 5 đến 6 ngày mới tưới 1 lần, mặt khác tôi có thời gian làm thêm chậu cảnh để bán” ông Ngoãn cho biết.

Không chỉ tiết kiệm được công lao động mà điện năng tiêu thụ cho việc tưới nước cũng được tiết giảm đáng kể. Nếu trước tưới bằng tay để kịp thời gian nên hầu như nhà nào cũng đồng loạt tưới vào ban ngày, nhiều nhà cùng tưới nên nguồn điện không đảm bảo, chi phí lại cao. Nhưng với hệ thống tưới nhỏ giọt hầu hêt đều được thực hiện vào ban đêm nên chi phí tiền điện giảm đáng kể. “Khoảng 10h đêm tôi ra bật máy bơm để hệ thống tự vận hành, khoảng ba tiếng sau thì tắt máy đi ngủ. Nhờ khung giờ tưới ngoài giờ cao điểm tiêu thụ điện nên chi phí giảm rất nhiều. như gia đình tôi trước đây mỗi tháng mất từ 1 đến 1,5 triệu đồng tiền điện, thì nay chỉ vào khoảng 600 đến 700 ngàn” anh Trần Minh Nhỏ, một thành viên CLB cho biết.

Hệ thống tưới nhỏ giọt trên vườn tiêu gia đình ông Vương Đoàn Ngoãn


Bên cạnh đó hệ thống tưới nhỏ giọt còn giúp người trồng tiêu giảm được chi phí cũng như tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Trước đây mỗi lần bón phân cho tiêu người trồng thường rắc phân trên bề mặt gốc tiêu sau đó dùng vòi tưới nên phân không ngấm sâu, một lượng lớn phân theo nước thất thoát. Mặt khác việc tưới nước bằng tay dễ làm sói mòn bộ rễ cây tiêu nên làm tiêu mất sức, năng suất giảm. Thế nhưng với hệ thống tưới nhỏ giọt, phân bón sau khi được hòa tan vào nước được bình áp lực hút ngượi, sau đó theo hệ thống đường ống đến từng gốc tiêu. Nhờ đó tận dụng được tối đa lượng phân bón, hiệu quả cũng được nâng cao. “Với hệ thống này không những tránh thất thoát phân bón, không gây ảnh hưởng đến bộ rễ cây mà chi phí phân bón cũng giảm hẳn. So với trước thì khi áp dụng tưới nhỏ giọt chi phí phân bón giảm đến 50%.” anh Nguyễn Văn Nam, thành viên clb chia sẻ. Cũng nhờ đó mà năng suất tiêu trong những năm gần đây của hội viên clb tăng đáng kể. Hiện nay với việc áp dụng công nghệ mới năng suất tiêu đạt khoảng 8 tấn trên 1 hecta, cao gấp đôi so với trước, bên cạnh đó chất lượng tiêu cũng được nâng cao, giá bán luôn cao hơn so với mặt bằng chung từ 10.000 đến 20.000/ 1kg.

Chính từ hiệu quả thiết thực đó mà từ chỗ chỉ có 6 hộ tham gia ban đầu thì nay đã có đến 70% hội viên clb tham gia thực hiện mô hình nước tưới nhỏ giọt. “cây tiêu là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh. Việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất tiêu không những góp phần nâng cao đời sống người nông dân mà còn góp phần thwucj hiện chủ trương phát triển cây trồng chủ lực của tỉnh” ông Ngoãn cho hay.

Bài, ảnh: Phạm Tùng

(Bài viết đạt giải Khuyến khích cuộc viết tuyên truyền về tiết kiệm điện năm 2013

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Bón phân mùa mưa cho cây hồ tiêu

Trong những quy trình chăm sóc cây cà phê, hồ tiêu thì bón phân đúng lúc, đúng liều, đúng loại, đúng cách (4 đúng) là mấu chốt rất quan trọng trong việc quyết định năng suất và hạ giá thành.
Trong những năm gần đây sản lượng cà phê, hồ tiêu XK có phần giảm nhưng Việt Nam vẫn giữ "á quân" XK cà phê (chỉ sau Brazin), còn hồ tiêu đang đứng đầu thế giới. Diện tích, sản lượng cà phê, hồ tiêu SX tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên.
Mặc dù thời tiết không được thuận lợi như mong muốn nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến năng suất cũng như chất lượng nông sản. Nhưng bù lại là sự tiến bộ KHKT, áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác mới... đặc biệt là đầu tư chăm sóc đúng từng thời điểm giúp cà phê, hồ tiêu giữ vững năng suất, chất lượng.
Trong những quy trình chăm sóc cây cà phê, hồ tiêu thì bón phân đúng lúc, đúng liều, đúng loại, đúng cách (4 đúng) là mấu chốt rất quan trọng trong việc quyết định năng suất và hạ giá thành nông sản.
Tây Nguyên đang vào mùa mưa, mùa mà cây cà phê, hồ tiêu nuôi trái nên lượng dinh dưỡng cây trồng lúc này cần rất nhiều, không những nhiều mà còn đủ các vi chất cần thiết để đủ nuôi trái, chống chịu với môi trường mưa nhiều, sâu bệnh và đặc biệt hạn chế rụng quả trong giai đoạn nuôi trái.
Có rất nhiều Cty phân bón SX ra những loại phân chuyên dùng để bón cho cà phê, hồ tiêu trong giai đoạn này nhưng chủ yếu thiên về phần dinh dưỡng đa lượng (NPK) chứ không quan tâm nhiều đến vi chất thiết yếu.
Tuy nhiên, có một số ít Cty phân bón lớn nghiên cứu kỹ vùng đất Tây Nguyên, nguồn dinh dưỡng của cây cà phê, hồ tiêu trong những năm khai thác kinh doanh mới hiểu được cây trồng thiếu vi chất gì và bổ sung đúng đắn để ổn định pH đất đảm bảo cho cà phê, hồ tiêu phát triển bộ rễ, nuôi trái và hạn chế tối đa hiện tượng rụng trái do thiếu vi chất, cũng như thừa những chất không cần thiết làm lãng phí tiền của.
Là một trong những Cty có thị trường phân phối lớn và gắn liền nhiều năm với nông dân Tây Nguyên nên hiểu rõ vùng đất này, nhu cầu cây công nghiệp, rút tỉa kinh nghiệm của những nông dân SX giỏi nên cải tiến cho ra những sản phẩm phân bón mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cà phê, hồ tiêu trên vùng đất Tây Nguyên.
Chẳng hạn như những sản phẩm NPK truyền thống 16.16.8.9S+TE, 17.7.17.9S+TE... được Cty SX bằng công nghệ tạo hạt hơi nước tiên tiến giảm được hàm lượng lưu huỳnh (S) từ 13S xuống 9S là phù hợp với vùng đất Tây Nguyên (không làm chua đất do dư thừa S), làm hạt phân NPK tan nhanh hơn giúp cây hấp thu ngay kịp thời nuôi trái trong giai đoạn đang lớn nhanh. Nhờ đó mà hạn chế hiện tượng rụng trái do cung cấp dinh dưỡng không đủ và kịp thời.
Hay những sản phẩm đặc chủng bổ sung các vi chất hạn chế rụng trái như phân NPK PEP, Dr.Thúc Trái, Number One-Dưỡng Trái, đặc biệt trong năm 2014 cho ra sản phẩm NPK GoodLive (15-9-20+TE) với hàm lượng đạm, lân phù hợp và kali cao, bổ sung các trung vi lượng thiết yếu mới nhằm giúp nuôi trái hiệu quả hơn cho cây cà phê và hồ tiêu trong mùa mưa.
Sản phẩm này được các đại lý ở Lâm Đồng, Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Kon Tum tín nhiệm đem về nhằm giới thiệu giúp nông dân chăm sóc nâng cao năng suất cho cà phê, hồ tiêu.
Quy trình bón tham khảo từ Phòng Kỹ thuật của một công ty phân bón lớn:
Tên phân bón
Thời điểm
Lượng dùng
Công dụng
HC- BỘT CÁ LẠT

Đầu mùa mưa
400-500kg/ha
Bổ sung mùn, đạm cá, cải tạo đất.
Super vi lượng Việt Mỹ
Đầu mùa mưa
2,5-3kg/1.000m2
Bổ sung đầy đủ các vi lượng cho cây
16-16-8.9S+TE
16-16-13+TE
Đầu mùa mưa
250-300 kg/ha
Nhu cầu dinh dưỡng thiết yếu
17-7-17.9S+TE
17-7-18.9S+TE
Giữa và cuối mùa mưa
400-500kg/ha
Nhu cầu dinh dưỡng thiết yếu
PEP,DR-Thúc Trái, N01-Dưỡng Trái
Giữa và cuối mùa mưa
300-350kg/ha
Nhu cầu dinh dưỡng và vi chất thiết yếu
GoodLive(15-9-20+TE)
Giữa và cuối mùa mưa
300-350kg/ha
Nhu cầu dinh dưỡng và vi chất thiết yếu

     
THÀNH CÔNG

Hỏi đáp về Trồng cây hồ tiêu và các loại cây trồng trên đất đỏ bazan?

Một số câu hỏi liên quan đến lĩnh vực trồng trọt như: Trồng 1600 gốc tiêu, đang ra bông đồng loạt khoảng 15phân. Xin hỏi đổ thuốc phòng tuyến trùng rễ có ảnh hưởng đến trái không?; Trồng tiêu ác và tiêu lươn thì tiêu nào có giá trị hơn? Đất đỏ bazan nên trồng xen vào cây màu gì?... đã nhận được câu trả lời từ chuyên gia.

Câu hỏi:



Ảnh minh họa

Chị Lê Thị Lý, 0984794836, TT Kon Dơng - Mang Yang- Gia Lai hỏi: Trồng 1600 gốc tiêu, đang ra bông đồng loạt khoảng 15 phân. Xin hỏi đổ thuốc phòng tuyến trùng rễ có ảnh hưởng đến trái không?

Trả lời:

TS Đinh Văn Đức cho biết: Trong lúc cây hồ tiêu đang ra bông, chị Lý và bà con không nên tác động bất cứ biện pháp nào làm ảnh hưởng đến rễ cây kể cả việc tưới nước thuốc trừ tuyến trùng, mà nên tưới trước khi cây ra hoa khoảng 1-2 tháng hoặc sau khi hoa quả đã ổn định. Hoặc tưới cùng với khi bón phân hữu cơ cho cây hồ tiêu. Tốt nhất là nên tưới nước thuốc cho cây vào đầu mùa mưa và giữa mùa mưa, lúc nàymật độ tuyến trùng đang tăng cao.

Câu hỏi:

TS Đinh Văn Đức cũng sẽ có câu trả lời cho câu hỏi của chị Nguyễn Thị Hợi, 01697481159, Lâm Hà - Lâm Đồng. Nội dung câu hỏi như sau: Trồng tiêu ác và tiêu lươn thì tiêu nào có giá trị hơn? Đất đỏ bazannên trồng xen vào cây màu gì?

Trả lời:

Chị Hợi thân mến, trồng tiêu bằng cành dây lươn sẽ cho hiệu quả hơn.

Nếu trồng bằng hom cành thì cây cho trái sớm trong vòng 1 năm sau khi trồng. Cây phát triển chậm không leo mà mọc thành bụi nên không không cần nọc tuy nhiên năng suất thấp và tuổi thọ cũng không cao (7-8 năm) cho nên chỉ trồng để sử dụng trong gia đình ít phổ biến trồng đại trà cho sản xuất.

Nếu trồng bằng cây giống nhân từ hom cành lươn, cây cho trái chậm hơn 3-4 năm sau khi trồng song tiềm năng cho năng suất cao và tuổi thọ cũng cao nhất thích hợp cho chuyên canh. Hơn nữa hom từ dây lươn rẻ, dồi dào hơn.

Cũng theo TS Đinh Văn Đức Trồng cây hồ tiêu trên đất đỏ Bazan, thời kỳ đầu khi cây hồ tiêu còn nhỏ nên trồng xen vào vườn các loại cây ngắn ngày họ đậu vào giữa khoảng cách các hàng và trụ tiêu để vừa tăng thu nhập, vừa cải tạo tăng độ phì cho đất vừa chống cỏ dại,...

Câu hỏi:

Anh Hoàng Văn Vương, 01652465979, Vĩnh Tuy - Bắc Quang - Hà Giang hỏi: Cam sành 10 tuổi bị khô đầu cành và rụng lá , phun thuốc Anvin và đồng đỏ thì có tác dụng không?

Trả lời:

Thưa anh Vương. Theo TS Đinh Văn Đức, cây cam sành của gia đình anh bị khô đầu cành và rụng lá. Anh phun thuốc đồng đỏ cũng có tác dụng nhưng hiệu quả đạt được không cao.

Tốt nhất anh nên phun các thuốc như BAVISTIN 50 FL(SC), CARBENVIL 50 SC, APPENCARB SUPER 50 FL HOặC EPOLISTS 80 WP,….Anh lưu ý sửdụng thuốc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Câu hỏi:

Anh Đỗ Như Huân, 01259498952, Đông Kết - Khoái Châu - Hưng Yên hỏi: Chanh tứ mùa trồng được hơn 3 năm rồi mà vẫn chưa có quả. Tôi mua mắt giống ở trại giống Sơn La. Xin hỏi nguyên nhân và cách khắc phục?

Trả lời:

Theo sự lý giải của TS Đinh Văn Đức, nguyên nhân cây chanh tứ thì ra hoa chậm có thể do mắt ghép đã lấy trên các cành vượt hoặc do kỹ thuật chăm sóc làm cây sinh trưởng quá mạnh nên cây chưa ra hoa.

Vào trước mùa cây chanh ra hoa khoảng 1 tháng, anhHuân đào đứt một số rễ cây thì sau khoảng 1 tháng cây sẽ ra hoa.

Nếu ghép bằng mắt của cành vượt cần phải chờ thên 1-2 năm nữa cây mới có thể ra hoa.

Câu hỏi:

Anh Nguyễn Văn Chiến, 01643733211, Sóc Sơn - TP Hà Nội hỏi: địa chỉ bán giống các loại nấm ở nơi gần chất lượng?

Trả lời:

Để mua được giống nấm đảm bảo sạch bệnh và chất lượng tốt, anh có thể liên hệ trực tiết với:
Trung tâm công nghệ sinh học, viện di truyền Việt Nam

Địa chỉ: KM 2 - Đường Phạm Văn Đồng - Cổ Nhuế Từ Liêm- Hà Nội

Số điện thoại: 043. 7543 198 ; 043. 544712.

Tại đây, anh bà con sẽ được tư vấn kỹ lưỡng về kỹ thuật trồng cũng như chăm sóc nấm.

Câu hỏi:

Anh Nguyễn Viết, 0914418550, Tân Văn - Lâm Hà -Lâm Đồng hỏi: Mua hạt giống cây dâu tằm ở đâu?

Trả lời:

TS Đinh Văn Đức cho biết: Cây dâu tằm có thể nhân giống bằng gieo hạt nhưng thường chỉ áp dụng cho công tác chọn tạo giống, còn trong sản xuất nhân giống để trồng bằng phương pháp vô tính (giâm hom cây dâu). Vì vậy để mua giống dâu tằm tại Lâm Đồng, anh Viết đến địa chỉ sau đây:

Tổng công ty dâu tằm tơ

Địa chỉ: số 20 Quang Trung, Phường 2, TX. Bảo Lộc, Lâm Đồng

Điện thoại: 0633864047



Xin được nhắc lại địachỉ cung cấp giống cây dâu tằm:

Tổng công ty dâu tằmtơ

Địa chỉ: số 20 QuangTrung, Phường 2, TX. Bảo Lộc,Lâm Đồng

Điện thoại: 0633864047

Gọi điện đến chươngtrình anh Viết cũng hỏi thêm: Vườn cà phê có nhiều cây tre rừng mọc thì khắcphục như thế nào?

TS Đinh Văn Đức cũng tư vấn cho câu hỏi này như sau: Để khắc phục các cây tre rừng mọc trong vườntrồng cà phê, tốt nhất là phải đào bỏ triệt để các gốc tre. Hoặc cũng có thể để như vậy đến khi cây cà phê lên tốt cùng với các cây che bóng sẽ che khuất ánh sáng, cây tre sẽ không mọc được nữa.

Câu hỏi:

Chị Trương Thị Dương,01639841588, Đông Mai - Yên Hưng - Quảng Ninh hỏi: 1 sào đậu đũa bị những con màu đen to bằng cọng tóc bám, làm cho ngọn bị teo, nhiều nhánh hoa có màu rỉ sắt, có hiện tượng chết dây khoảng 30%, đã dùng nhiều loại thuốc nhưng không thấy tiến triển. Hỏi nguyên nhân và cách khắc phục ?

Trả lời:

Theo mô tả của chị Dương, TS Đinh Văn Đức cho rằng cây đậu đũa bị bọ phân gai đen gây hại và bệnh trên hoa là bệnh rỉ sắt, bệnh do nấm gây ra.

Cách khắc phục như sau:

Đối với bọ phân đen, chị sử dụng các thuốc như MAP GREEN 6AS, 10 AS; OSHIN 20 WP; BIOSUN 3 EW;ACTARA 25 WG,...để phun trừ.

Đối với bệnh rỉ sắt sửdụng các thuốc như: NEW KASURAN 16.6WP, TILT 250 ND, TILT SUPER 300 EC,...đểphun trừ.

Sau khi phun thuốc cầnchú ý đảm bảo thời gian cách ly trước khi thu hoạch.

Câu hỏi:

Anh Vàng Văn Vương, 0912217635, Xuân Quang - Bảo Thắng - Lào Cai hỏi: Củ đậu giống của Trung Quốc đã trồng vụ đầu, hỏi có thể để giống lại sang vụ sau được không?

Trả lời:

Theo TS Đinh Văn Đức, cây củ đậu giống Trung Quốc trồng vụ đầu, khi cây mọc để cho ra hoa kết quả và quả già thì thu hoạch để giống trồng cho năm tiếp theo được. Còn hạt giống trồng trong năm không hết thì các hạt giống này không để làm giống cho vụ trồng năm sau được.

Phòng Ngừa Ngập Úng Hồ Tiêu Vào Mùa Mưa

GLO)- Cây tiêu được xem là một trong những cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trong những năm qua. Tuy nhiên, việc phát triển ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu tính bền vững, gây ra sự lây lan của dịch bệnh… đã làm thiệt hại không nhỏ đến đời sống của người dân trồng tiêu trên địa bàn.


Ảnh: Đức Thụy

Gia Lai là một trong 6 tỉnh trọng điểm trồng tiêu của cả nước, với diện tích khoảng hơn 10.000 ha, với sản lượng hàng năm dao động từ 20 ngàn đến 24 ngàn tấn. Tuy nhiên, trước đây, năng suất và sản lượng tiêu trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm đáng kể, mà nguyên nhân chủ yếu là do bệnh chết nhanh, chết chậm gây ra. Chỉ tính riêng trong năm 2013, diện tích tiêu chết trên toàn tỉnh là khoảng 300 ha, trong đó các huyện chịu thiệt hại nặng nhất là Chư Sê, Chư Pưh… Thực trạng tiêu chết qua các năm trên địa bàn tỉnh là bài học đắt giá cho việc trồng tiêu ồ ạt, chỉ dựa trên phép tính lợi nhuận đơn giản, không theo quy hoạch, cũng như sự thiếu hiểu biết về kỹ thuật trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại nên đã gây thiệt hại lớn cho nông dân. Do đó, cuộc chạy đua về giá trị kinh tế của loại cây trồng này nếu không có sự kiểm soát và phát triển theo hướng bền vững thì thiệt hại sẽ càng lớn hơn.

Theo ông Hoàng Phước Bính-Phó Chủ tịch Thường trực, Tổng Thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê cho biết, hiện đa số diện tích tiêu trên địa bàn huyện Chư Sê nói riêng và tỉnh Gia Lai nói chung chủ yếu sử dụng trụ gỗ và trụ bê tông để trồng không có bóng che và tưới nước theo kiểu truyền thống (tưới dí). Cách tưới này cần phải làm bồn cho tiêu trong mùa khô, nhưng vào mùa mưa thì nó sẽ gây ứ nước, ngập úng, độ ẩm cao và đây là môi trường thuận lợi cho nấm Phytopthra sp, các loại rệp sáp, tuyến trùng gây hại (gây ra bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây tiêu những năm qua) sinh trưởng và phát triển mạnh. Vì vậy, để giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh, góp phần phát triển cây tiêu theo hướng bền vững thì người dân cần phải thay đổi nhận thức về canh tác.



Theo đó, người dân cần trồng tiêu theo hướng trồng cạn, có lên luống, đặc biệt nên trồng cây che phủ cho đất như cây lạc dại, vừa chống xói mòn, rút nước nhanh trong mùa mưa, giữ ẩm trong mùa nắng, vừa tăng sinh khôi hữu cơ và tăng thêm dinh dưỡng cho đất. Tăng cường sử dụng các loại phân bón hữu cơ, các chế phẩm sinh học, các thuốc trị sâu bệnh bằng sản phẩm sinh học nhằm đảm bảo được tính cân bằng sinh thái, tăng độ phì và độ tơi xốp cho đất; phân hóa học chỉ là để hỗ trợ tăng năng suất, không nên quá lạm dụng-ông Bính cho biết thêm.

Ngoài ra, ông Hoàng Phước Bính cũng khuyến cáo trường hợp bà con muốn trồng mới thì cần chọn đất thật kỹ; đất phải thoát nước tốt, lớp đất mặt độ phì tốt, điều kiện nước thuận lợi. Đặc biệt, nên trồng tiêu bằng trụ sống và sử dụng giống tiêu lươn (vì tỷ lệ mầm bệnh, vi rút trong giống tiêu lươn rất thấp) vừa tạo sự bền vững cho vườn tiêu vừa giảm giá thành đầu tư ban đầu và bà con nên trồng từ nguồn vốn tự có, tránh vay vốn ngân hàng để trồng tiêu nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Những cây trụ sống nên trồng là hai cây thuộc họ đậu, ít tranh chấp chất dinh dưỡng với cây tiêu như cây muồng đen, cây keo; ngoài ra bà con cũng có thể trồng bằng cây gòn xanh, cây xoang…

Để phát triển cây tiêu theo hướng bền vững, giúp người dân tiếp cận tốt hơn về kỹ thuật trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại rất cần nhiều mô hình trình diễn và thực hiện nhiều đề tài để người nông dân định hướng và thực hiện có hiệu quả hơn.

Quang Tấn

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

Giá hạt tiêu đã tăng lên mức kỷ lục: 172 ngàn đồng/kg

Giá hạt tiêu đã tăng lên mức kỷ lục, 172 ngàn đồng/kg vào chiều 19/6.

Theo ông Trần Hữu Thắng-người trồng tiêu giỏi nhất Việt Nam (ngụ ấp Thọ Lộc, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai), suốt trong tuần này giá hạt tiêu bán ra tăng lên từng ngày.

Mới hôm 14/6, giá tiêu hạt bán ra chỉ mới 150-152 ngàn đồng/ kg, trong 5 ngày nay gía đã vọt lên 171-172 ngàn đồng/kg.

“Thực ra, giá tiêu hạt đã bắt đầu tăng lên từ đầu tháng 6. Tuy nhiên, do trên thị trường, trữ lượng tiêu hạt còn tồn tại nhà của người trồng tiêu không nhiều cho nên thương lái tranh mua để dự trữ cũng là một trong những nguyên nhân làm giá tiêu tăng rất nhanh trong gần tuần nay”, một số người trồng tiêu ở khu vực các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bình Phước cho biết.

Cũng theo ông Trần Hữu Thắng, giá tiêu bán ra như hiện nay thì người trồng tiêu có lãi rất cao.

Theo kinh nghiệm trồng tiêu lâu năm, năng suất đạt cao và ổn định tại vườn tiêu của ông (11-12 tấn/ha) thì nếu sản lượng chỉ cần đạt 4 tấn/ha thì người trồng sau khi trừ chi phí đầu tư cho sản xuất khoảng 100 triệu/ha/năm cũng còn lãi ròng khoảng 580 triệu đồng/ha/năm.

Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, trồng và chăm sóc tiêu cũng không phải dễ. Ngoài đất trồng phù hợp, giống tiêu tốt, khâu chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho cây tiêu cũng hết sức khó…

Chính vì vậy, nhiều nông dân trồng tiêu thu lãi được 3 năm, đến năm thứ 4 do thời tiết, sơ sót trong khâu chăm sóc thì cả vườn tiêu, chỉ trong vài ngày bị sâu bệnh hoành hành…dây tiêu rủ xuống rồi chết sạch thì lãi trong 3 năm cũng không đủ để đầu tư trồng lại vườn tiêu mới.

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Giá hạt tiêu tăng vọt, người dân phấn khởi

Các đại lý mua bán nông sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bình Phước cho biết: Thời điểm hiện nay, giá hạt tiêu mua tại nhà của nông dân là 150 đến 152 ngàn đồng/kg. So với cuối tháng 5, giá thu mua hạt tiêu đã tăng thêm 4-5 ngàn đồng/ký.

Ông Phan Hồng Oanh- chủ một trang trại trồng tiêu với diện tích khá lớn ở thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc (Đồng Nai) cho biết, trước đây hơn một tháng, giá hạt tiêu bán ra chỉ mới khoảng 135 ngàn đồng/ký. Với giá này, người trồng tiêu có lãi khá.

Nhiều vườn tiêu ở Đồng Nai nhờ áp dụng phương pháp tưới nước tiết kiệm vào mùa khô nên cây phát triển tốt, sản lượng ổn định…Từ đó, giá thành đầu vào thấp hơn nên thu lãi cao hơn. Ông Nguyễn Văn Cảnh- người trồng tiêu ở xã Đức Liễu, huyện Bù Đăng (Bình Phước) cũng cho biết, liên tiếp trong 3 năm nay giá hạt tiêu luôn ở mức cao trên 100 ngàn đồng/kg. Nay giá tăng vọt lên 150 ngàn đồng/ký thì người trồng tiêu có lãi đến 400-500 triệu đồng/ hécta.


Bà Bảo Ngọc (xã Bảo Bình, huyện Câm Mỹ, tỉnh Đồng Nai) chăm sóc vườn tiêu

Khu vực các tỉnh miền Đông Nam bộ có diện tích trồng tiêu rất lớn. Riêng Đồng Nai, theo Sở NN&PTNT là tỉnh có diện tích trồng tiêu đứng thứ ba trong cả nước với diện tích trên 8.200 hécta. Trong đó, có khoảng 7.300 hécta cây tiêu đang trong thời kỳ thu hoạch, với tổng sản lượng trên 15 ngàn tấn/năm.

Cao Thuyên/ Dân Việt

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Sử dụng axit humic cho cây trồng


Trong thành phần nhiều loại phân bón gốc và bón lá hiện nay, ngoài chất hữu cơ và các chất đa – trung – vi lượng thông thường còn có thêm axit humic. Bài viết sau đây nhằm giúp bà con hiểu rõ axit humic là chất gì và tác dụng lên cây trồng như thế nào…

Trong tự nhiên xác bã thực vật được vi sinh vật phân hủy tạo thành một hợp chất hữu cơ phức tạp là chất mùn, một nhân tố quan trọng tạo nên dộ phì nhiêu của đất. Trong chất mùn chứa nhiều loại acit hữu cơ như axit humic, axit fulvic, axit fugavic…, gọi chung là axit mùn. Trong số đó axit humic chiếm tỉ lệ nhiều nhất.

Humic là loại axit hữu cơ phức tạp, cấu tạo bởi nhiều thành phần hóa học, có khối lượng phân tử lớn, màu nâu đen, trung bình chứa 50% cacbon, 40% oxy, 5% hydro, 3% nitơ còn lại là lân, lưu huỳnh và các nguyên tố khác. Thành phần chính của axit humic là các vòng cacbon thơm có gắn các nhóm chức hoạt động như các nhóm cacboxyl, quinon, methoxyl…Hoạt tính sinh học của axit humic phụ thuộc vào hàm lượng của các nhóm chức này và khả năng trao đổi ion của chúng.

Axit humic cùng với các axit mùn khác bón vào đất có tác dụng kích thích sự phát triển của hệ rễ để hấp thu chất dinh dưỡng tốt hơn, cây sinh trưởng phát triển mạnh hơn. Nếu được hấp thu trực tiếp qua lá chúng sẽ giúp tăng cường sự quang hợp của cây do kích thích sự hoạt động của các men tham gia trong quá trình quang hợp. Cường độ quang hợp mạnh cây sẽ sinh trưởng nhanh. Ngoài ra axit humic còn làm tăng sức đề kháng của cây với sâu bệnh và các điều kiện bất lợi như nóng, rét, hạn, úng, chua phèn. Với các tác dụng trên, axit humic đang được khai thác sử dụng phổ biến trong các chế phẩm phân bón gốc và bón lá, chất kích thích sinh trưởng cây trồng và thuốc trừ bệnh cây.

Bình thường nếu bón các phân hữu cơ tự nhiên (như phân chuồng, phân xanh…) cũng sẽ tạo thành chất mùn và axit humic, ngoài việc tăng độ phì nhiêu cho đất, cung cấp chất dinh dưỡng cho cây còn có tác dụng kích thích sự sinh trưởng và tăng sức đề kháng của cây. Tỉ lệ chất hữu cơ được phân hủy tạo thành mùn (gọi là hệ số mùn hóa) trong các loại phân chuồng đã ủ hoai trung bình 30 – 50%, phân xanh 20 – 30%. Than bùn là loại phân hữu cơ tự nhiên chứa một khối lượng khá lớn trong lòng đất, tạo thành các mỏ than bùn.

Ở nước ta đã phát hiện và thăm dò nhiều mỏ than bùn, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thăm dò 8 mỏ than bùn (ở các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Hậu Giang, Long An) với trữ lượng khoảng 500 triệu m3. Than bùn ở các mỏ này có chất lượng tốt, hàm lượng mùn trung bình 40 – 50%, axit humic 20 – 30% và nhiều chất dinh dưỡng khác. Than bùn trở thành nguồn nguyên liệu chủ yếu cung cấp chất hữu cơ và axit humic cho công nghệ sản xuất phân hữu cơ hiện nay.

Axit humic không tan trong nước nên cây không hấp thụ trực tiếp được, phải chuyển thành dạng muối humat tan được trong nước và giảm độ chưa mới sử dụng cho cây trồng. Công việc này gọi là sự hoạt hóa axit humic, có thể dùng các loại muối kiềm như muối natri, muối kali, thường dùng nhất là nước amoniac. Than bùn nghiền nhỏ trộn với 2 -3% nước amoniac rồi ủ khoảng 5 – 6 giờ là phản ứng có thể xảy ra hoàn toàn.

Chất đạm trong nước amoniac gắn với gốc hữu cơ của axit humic tạo thành humat amôn, vừa dễ hòa tan vừa thêm chất đạm và giảm độ chua. Một số bà con ủ than bùn với vôi để bón, như vậy chỉ giảm độ chua và cung cấp thên chất hữu cơ cho đất chứ không có tác dụng hoạt hóa vì tạo thành humat canxi cũng rất khó tan trong nước, cây không sử dụng được.

Cũng có thể dùng vi sinh vật để hoạt hóa than bùn nhưng thời gian hoạt hóa lâu hơn dùng các muối kiềm, có thể phải 2 – 3 tháng.

Than bùn sau khi hoạt hóa có thể dùng làm phân bón ngay hoặc phối trộn thêm với các phân khoáng đa, trung và vi lượng để tạo thánh các loại phân hữu cơ – khoáng, hoặc trộn với vi sinh vật có ích tạo thành phân hữu cơ – vi sinh. Các loại phân hữu cơ được chế biến từ than bùn đã hoạt hóa không những cung cấp chất hữu cơ, vi sinh vật và các chất dinh dưỡng cho đất mà còn sử dụng được tính chất kích thích sinh trưởng vả tăng sức đề kháng cho cây trồng của axit humic.

Các humat trong than bùn đã hoạt hóa cũng được tách chiết để chế thành các phân bón lá, chất kích thích sinh trưởng và thuốc phòng trừ bệnh cây. Trong các chế phẩm phân bón thường ghi hàm lượng axit humic, cần hiểu rằng đây là humat, tức là muối của axit humic (giống như trường hợp thuốc trừ cỏ 2,4D chính là muối của axit 2,4D). Tùy loại chế phẩm mà hàm lượng axit humic khác nhau. Trong phân hữu cơ vi sinh bón gốc thường chứa từ 2 – 5 %, còn phân bón lá hàm lượng axit humic thường cao hơn, lên tới 15 – 20%.

Axit humic còn được sử dụng trong các thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ bệnh cây, giúp tăng cường sức kháng bệnh cho cây như bệnh nghẹt rễ, lở cổ rễ, đốm lá, sương mai cho cây trồng cạn và các bệnh đạo ôn, khô vằn, vàng lá cho lúa.

Với tác dụng thích thích sinh trưởng và tăng sức đề kháng cho cây, lại tương đối dễ khai thác và chế biến với khối lượng lớn từ các mỏ than bùn, axit humic đang trở thành hoạt chất hữu cơ được sử dụng ngày càng phổ biến, góp phần vào quá trình phát triển nền sản xuất nông nghiệp bền vững.

Theo: Báo NNVN